NGƯỜI TÌNH XƯA
(Song tứ bát)
Nơi đây em nhớ
Chuyện tình đôi ta
Đất quê mình vẫn đậm đà như xưa…
Mà sao hai đứa
Nguyên Hữu: tên thật là.................. Sinh ngày: 26 tháng 08 năm ........ Quê quán: Nam Định
NGƯỜI TÌNH XƯA
(Song tứ bát)
Nơi đây em nhớ
Chuyện tình đôi ta
Đất quê mình vẫn đậm đà như xưa…
Mà sao hai đứa
Lưỡng đầu xà nghịch thiệt: Có 2 cụm từ đứng ở đầu và cuối mỗi câu; cụm từ sau là cách nói lái của cụm từ trước. Mỗi cụm từ có 2 từ.
HỜN DỖI
(Nói lái)
Ứ thèm nói chuyện thém ừ sao
TÔI BIẾT XIN LỖI RỒI NÀY
Đã nhiều lần tôi muốn nói
Nhiều hơn một câu xin lỗi
Lần nào cũng thế lại thôi
Tôi bỏ lỡ thật sự rồi…
Có người không chờ đợi được
CŨNG GIỐNG NHƯ CHUYỆN TÌNH TRÊN ĐÀI, BÁO
(Tam ngũ hành)
Chòng chành tôi
Vương vấn nơi áo dài
Mỏng manh bay
Vẹn một ngày không nghỉ
Lưỡng Đầu Xà là 1 lối "Viết Ngược". Lưỡng Đầu Xà = (có) 2 cụm từ (mỗi cụm từ gồm 2 từ) ở vị trí đầu và cuối của mỗi câu, cụm từ sau là hoán đổi vị trí của cụm từ trước như "con rắn 2 đầu" (lưỡng đầu xà). í dụ: Nghĩa nặng --- nặng nghĩa. (Lưỡng = hai. Lưỡng đầu = 2 đầu. Xà = con rắn).
NHẮN CÁC BẠN THƠ
Thương chồng giữ đạo, đáng chồng thương
Thường thấy từ xưa chuyện thấy thường
Song Điệp = hai cặp điệp tự trong mỗi câu của bài thơ, hoặc ở đầu câu hoặc ở giữa câu. (Nam Phong tạp chí). (Song = 2 cái, đôi).
VÔ ĐỀ
Vất vất vơ vơ cũng nực cười
Căm căm cuối cuối có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
NỖI NHỚ QUẦN THẢO TRONG EM
(Nhất tam ngũ thất)
Ai
Hay dỗi hờn
Làm cho cơn gió hoảng
Bất chợt vội vàng lảng qua bên
Điệp Từ = một Từ được lặp lại trong mỗi câu của bài thơ. Những Từ này đều không giống nhau. (Điệp = có sự lặp lại về mặt ngôn ngữ). - Điệp từ xảy ra không có liên quan đến vần, ở bất kỳ vị trí nào trong câu (kể cả chữ cuối) nhưng thường có vị trí giống nhau. - Điệp từ ở vị trí đầu và cuối mỗi câu (có liên quan đến vận), còn gọi là Vận Hồi Đầu. - Điệp từ xảy ra không có liên quan đến vần, ở bất kỳ vị trí nào trong câu (kể cả chữ cuối) nhưng thường có vị trí giống nhau.
CÓ LẼ NÀO
SỐNG Ý NGHĨA
**Thơ Cửu ngôn**
(Gieo vần tiếp)
Đâu có phải ai cũng dễ dàng hiểu hết
Nếu không đặt lên bàn cân làm sao biết
Những thứ như công danh lợi lộc ngoài kia
DUYÊN
(Nhị Kiu Kiu)
Không duyên
Mà cưỡng ép thì chỉ như dòng nước lũ
Càn quấy đêm ngày mong đê kè thất thủ
Có duyên
MÊNH
MÔNG TÌNH NGƯỜI
(Lục
bát biến thể)
Khi
vấp ngã hãy nhìn lên
Thấy
trời rộng lớn thương thêm lấy mình
Không
phải cứ ngã là khinh
Nhé đừng nghĩ vậy là tình héo đi
VẦN
THƠ THEO VỀ
(Lục
bát biến thể)
Hay
là bỏ hết đi em
Về
lại trốn cũ mà quên muộn phiền
Ngày
ngày hạnh phúc bình yên
Không phải nhớ nhớ quên quên khổ sầu…
Bát Điệp = một Từ, thường là Từ đơn (viết thành 1 chữ), lặp lại trong tất cả các câu (8 câu) của bài thơ bát cú. (Bát = 8. Điệp = sự lặp lại của ngôn ngữ).
GIẢI THƯƠNG
Ai dám thương đâu kẻ có chồng
Thương vì một nỗi để phòng không
Thương con cuốc nọ kêu mùa hạ
Tung Hoành Trục Khoán = Dùng cặp câu đối làm chủ đề cho bài thơ (mỗi câu có 7 chữ hay thất ngôn). Các từ trong vế thứ nhất làm từ đầu tiên cho các câu thơ từ 1 đến 7 (trục tung); nguyên vế thứ hai đặt làm câu thứ 8 (trục hoành). (Tung = đường thẳng dọc. Hoành = đường thẳng ngang).
(Lệ đổ ngắm nhìn em hạnh phúc
Châu tuôn giã biệt kẻ sang ngang )
Bài thơ: LỆ DỖI CUNG ĐÀN
Thủ Vĩ Ngâm (Thủ Vỹ Ngâm) = câu đầu và câu cuối của bài thơ lặp lại giống nhau. (Thủ = đầu. Vĩ = vỹ = đuôi).
KHÓC ÔNG PHỦ VĨNH TƯỜNG
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!
Cái nợ trần gian đã hết rồi
Chôn chặt văn chương ba tấc đất
Yết Hậu = câu chót của bài ĐL tứ tuyệt chỉ có 1, 2 chữ vận mà thôi còn 3 câu đầu thì đủ chữ (7 chữ cho thất ngôn và 5 chữ cho ngũ ngôn). Đây là định nghĩa của biến thể Yết Hậu Thi, thường gọi tắt là Yết Hậu.
Thơ yết hậu gồm bốn câu, mà câu cuối chỉ có một, hai chữ, một - hai chữ nhưng phải thâu tóm được ý tứ chính của toàn bài.
Sau đây là câu chuyện xảy ra ở một ngôi chùa, một buổi sư cụ đi vắng, Chuyện được kể bằng toàn thơ yết
Cô nhạn xuất quần: câu thơ cuối có vần khác với những vần còn lại.
XÚC CẢM DẦN PHAI
(Thất ngôn bát cú - Đường Luật)
Phải đó là nơi đầy kỷ niệm
Quê thành nỗi nhớ xuân đang kiểm
Cây già rậm bóng kín cành che
Cỏ dại thưa thân xoè lá điểm
BONG BÓNG HỜN GHEN
***Thơ Lục ngôn***
(Gieo vần cách)
Nào cứ phải xoăn là đẹp
Em không làm tóc thế đâu
Chẳng thấy trọng sang chi hết
Cô nhạn nhập quần: câu thơ đầu có vần khác với những vần còn lại.
THIÊN THƯ
(Cô nhạn nhập quần)
Trên bàn nhắn gửi một phong thư
Đẹp giống như không ở cõi trần
Chữ nét mơ hồ hơi nước quẩn
Thơ lời mộng mị tiếng đàn ngân
Trốn Vận = câu đầu của bài bát cú không có vần và vần bắt đầu với câu thứ hai và câu đầu phải đối với câu thứ hai.
ĐÊM TÌNH
Giấc thắm tình duyên non gối nước
Màn sương để lọt ánh sao băng
Phá Lục = mấy câu sau thì 7 chữ duy có câu đầu thì chỉ có 6 chữ mà thôi (trong bài thơ thất ngôn), nôm na là "phá câu 7 chữ thành câu 6 chữ".
VỊNH TRÂU GIÀ
Một nắm xương, một nắm da
Bao nhiêu cái ách cũng từng qua
Đuôi cùn biếng cột Điền Đơn hỏa
Tên gọi khác: Hoàn Cú - Hườn Cú - Chuyển Vỹ Hồi Văn - Tuần Hoàn Bất Tận
một hay hai chữ chót của câu trên làm một hay hai chữ đầu của câu đưới, như vậy cho đến câu cuối.
Cùng thế chi hơn bẳng có tiền
Có tiền sung sướng cũng như tiên
SỢI TƠ NEO NHỮNG CON THUYỀN
(Tứ thất cửu)
Đừng đi nữa nhé
Hỡi những con thuyền bé nhỏ kia
Biển khơi có gì mà vội chia tay thế
Lời kể người ta
Triệt hạ = Từ ngữ cuối của mỗi câu thơ để lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa (câu thơ chưa trọn nghĩa chứ không phải là tự ý ngắt các từ ghép hay từ láy), nhưng người đọc vẫn có thể hiểu rõ hoặc có thể thêm vào những phương án của riêng mình.
Một bài thơ thất ngôn mà câu nào cũng không trọn ý, nhưng mà người đọc vẫn hiểu tác giả còn muốn nói gì thêm.
Toàn thiên, câu nào cũng bỏ lửng, không trọn ý, song độc giả vẫn hiểu được tác giả muốn nói gì.
Tên gọi khác: Bát vận – Đồng vận – Nhất vận - Bát vận đồng âm - Bát vĩ đồng âm
NGÀY MAI SẼ SÁNG TƯƠI
(Vĩ tam thanh)
Mưa to chỉ muốn vúi vủi vùi
Những nỗi trong lòng chúi chủi chui
Lấy những sầu đau kiêm kiệm kiểm
Tìm vài uất khổ thủi thùi thui
THÀNH PHỐ SONG SONG
(Thất ngôn bát cú - Đường Luật)
Đôi chim én liệng bay trong nắng
Chỉ một mình em nơi ngõ vắng
Ngắm đoá hoa tươi rực rỡ mầu
Nhìn con phố đẹp lung linh sáng
THI KHÚC THÁNG BA
**Thơ Cửu ngôn **
(Gieo vần nối)
Gió cứ lộng, nắng cứ rơi, em cứ tươi
Cho cuộc sống vui lây niềm vui em có
Có thể chỉ là một niềm vui bé nhỏ
Dĩ Đề Vi Vận
* Hạn Vận = vần ra trước cho bài thơ. Như vậy 5 vần của bài Bát Cú đã định trước theo đúng thứ tự cho những câu phải có vần.
Đây là những Hạn Vận thường được dùng:
không - chồng - trông - bông - lông
bồ - xô - cô - vô - rô ;
VI VU TIẾNG GỌI
***Thơ Ngũ ngôn***
(Gieo vần ba tiếng)
Anh đi bận ấy nghèo
Bến xưa sóng còn reo
Sở hữu nhiều kỉ niệm
Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm là người làm thơ Độc vận đầu tiên.
DẠI KHÔN
Làm người có dại mới nên khôn
MỘT NỖI NIỀM
* Thơ Thập ngôn *
(Gieo vần tiếp)
Mùa hoa gạo đến rồi đỏ rực rỡ trên cây
Em bỗng nhớ anh lắm và tìm về nơi đây
Nhiều bông hoa rơi đầy vì hình như cũng nhớ
Vĩ tam thanh (Vỹ tam thanh)
Vĩ Tam Thanh (Vĩ = đuôi, Tam = ba, Thanh = tiếng) = Lối thơ mà 3 tiếng cuối cùng của câu nào cũng phát âm giống nhau. Như vậy, ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm (giống hệt nhau về âm vần nhưng khác thanh dấu).
VÔ ĐỀ
Tai nghe gà gáy tẻ tè te
VÀNG VỌT TRỜI ĐÊM
Nhìn hướng trời tây
Nơi ấy có tia hy vọng
Có niềm mong ngóng
Vẫn chưa muốn về
Làm người ở nhà
Đây, miền tổ quốc thật là xinh
Hết cảnh âm u sẽ rạng hình
Khoán thủ chiết tự = Chữ cái (mẫu tự) trong tựa đề làm âm đầu cho các Từ ở đầu mỗi câu
thơ của một bài thơ. Tựa đề thường là nhân danh hay địa danh.
MỘNG CẢNH
(Khoán thủ chiết tự)
Một khúc thiên thai lạc cõi trần
Ôn hoà, nhã nhặn mộng ngày xuân
Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ:
"Làm hết bổn Như Tây Nhựt Trình rồi"
Làm vầy sánh kẻ thả ngoài khơi,
Hết thảy đưa chân biết mấy nơi,
Bổn quấc về coi cồn vực đổi,
Như thuyền chạy thấy núi sông dời,
Thủ Nhất Tự = Chữ cái (mẫu tự) đứng đầu các câu thơ của một bài thơ đều giống nhau.
MƠ HOA
Lá trải thêm mùa ruộm ý nguyên
Lời thương vẫn ủ nét mơ huyền
Len dòng nhạc đẫm cung hờn tuổi
Lỗi giọt tơ nhòa mắt ngẩn duyên
BÓNG MA VÀ KỈ NIỆM
* Thơ 9 chữ *
Một chiếc xe khách đậu gần chỗ tôi ngồi
Một đoàn người tay sách nách mang đồ đạc
Nhiều người đi qua trong đó có cả em
Không nhìn thấy tôi. Chắc chắn. Tôi nghĩ vậy…
Phân biệt thơ Đường luật và thơ Đường:
Rất nhiều người làm thơ đã lầm lẫn gọi thơ Đường luật là thơ Đường. Thật sự thì đây là 2 ý niệm hoàn toàn khác nhau.
- thơ Đường luật (ĐL) : là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Tàu. Các bài thơ này bên Trung quốc được gọi là Luật thi. Sang Việt Nam, Thi luật gọi là thể thơ ĐL.
- thơ Đường hay Đường thi : là những bài thơ của các thi sĩ Trung Hoa làm dưới thời nhà
Danh sách những biến thể của thơ Đường Luật (Thất ngôn bát cú – Đường luật)
1.Thủ Nhất Thanh (Thủ Nhất
Đồng) - Thủ Nhất Tự
2. Dĩ Đề Vi Thủ - Chiết Tự
Khoáng Thủ - Chiết Tự Khoáng Tâm
3. Vĩ Tam Thanh
4. Độc Vận
5. Dĩ Đề Vi Vận (Hạn Vận)
Thông vận vần U, Ư
uông – ương – ang
út, uốt : thông nhau.
ụi, ỗi : thông nhau.
uyệt, ịt : thông nhau.
ươi - ơi – ưi
Thông vận vần O, Ô, Ơ
ói, ủi : thông nhau
ọ, ủa : thông nhau.
óng, úng : thông nhau.
ổ, ũ : thông nhau.
ỗ, ữa : thông nhau.