THƠ ĐƯỜNG LUẬT.
I. TỔNG QUÁT.
II. THƠ TỨ TUYỆT.
III. PHÉP ĐỐI.
IV. PHÉP HỌA.
V. LUẬT VỀ ĐIỆU THƠ.
VI. ĐỐI NGẪU.
VII. THI BỆNH.
I-TỔNG QUÁT.
Bài này trích từ quyển Văn học Việt Nam của GS Dương Quảng Hàm, viết tại Hà Nội tháng 6 năm 1939. In tại
Thơ Đường luật hay cận thể là thể thơ đặt ra từ đời nhà Đường (618-907) bên Trung Hoa, phải theo luật lệ nhất định.
Tứ tuyệt hay bát cú:
Theo số câu trong bài, thơ Đường luật chia ra làm hai lối:
1- Tứ tuyệt: 4 câu
2- Bát cú: 8 câu
Trong hai lối ấy, lối bát cú là lối chính. Mà bát cú vần bằng là phổ biến hơn cả.
(Các bạn chỉ cần học và trau dồi loại bát cú vần bằng là đủ để Làm thơ và Họa thơ Đường luật rồi).
1. VẦN.
Cách gieo vần:
Thường dùng vần bằng, rất hiếm dùng vần trắc. Suốt bài thơ chỉ gieo một vần gọi là độc vận.
Có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và các câu chẵn, nghĩa là cuối các câu 1,2,4,6,8.
Lạc vận và cưỡng áp:
Làm thơ phải hiệp vận cho đúng. Nếu gieo sai như cây đi với hoa là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng thì gọi là cưỡng áp. Hai cách này đều không được cả.
2. ĐỐI.
Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú, trừ hai câu đầu, hai câu cuối, còn bốn câu giữa cứ hai câu đối nhau: 3 với 4; 5 với 6.
3. LUẬT
Luật bằng và luật trắc:
Là cách sắp đặt tiếng bằng và tiếng trắc trong các câu của bài thơ. Luật nhất định buộc nhà làm thơ phải theo đúng mà đặt.
LUẬT BẰNG:
Bắt đầu bằng hai tiếng bằng.
Luật bằng vần bằng:
1: B B T T T B B (v: vần)
2: T T B B T T B (v)
3: T T B B B T T
4: B B T T T B B (v)
5: B B T T B B T
6: T T B B T T B (v)
7: T T B B B T T
8: B B T T T B B (v)
LUẬT TRẮC:
Bắt dầu bằng hai tiếng trắc.
A . Luật trắc vần bằng:
1: T T B B T T B (v)
2: B B T T T B B (v)
3: B B T T B B T
4: T T B B T T B (v)
5: T T B B B T T
6: B B T T T B B (v)
7: B B T T B B T
8: T T B B T T B (v)
B. Luật trắc vần trắc
1: T T B B B T T (v)
2: B B T T B B T (v)
3: B B T T T B B
4: T T B B B T T (v)
5: T T B B T T B
6: B B T T B B T (v)
7: B B T T T B B
8: T T B B B T T (v)
4. BẤT LUẬN.
Trong bài thơ, chữ thứ 1, thứ 3 không cần theo đúng luật bằng trắc (chữ thứ 5 không nên theo lệ bất luận).
Nhưng chữ thứ 2, 4, 6 phải đúng luật bằng trắc: Nhị tứ lục phân minh.
5. KHỔ ĐỘC.
Nghĩa là khó đọc, đọc lên trúc trắc không được êm tai. Tuy theo lệ "bất luận " có thể thay đổi mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng trắc mà đổi ra bằng thì bao giờ cũng được, chứ đáng bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp, sự thay đổi ấy làm cho bài thơ khổ độc.
Những trường hợp ấy là: Chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ đáng là bằng mà đổi ra trắc là khổ độc .
6. THẤT LUẬT.
Trong một câu thơ chữ nào đáng là bằng mà đặt tiếng trắc, hoặc đáng trắc mà đặt tiếng bằng, thì gọi là thất luật (sai luật thơ), không được.
7. NIÊM.
Niêm nghĩa đen là dính với nhau, là sự liên lạc âm luật của hai câu thơ trong một bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào hai chữ đầu câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Trong một bài thơ bát cú, những câu sau đây niêm với nhau.
Thí dụ: Một bài thơ luật bằng vần bằng:
Câu 1 niêm với 8:
B B T T T B B
Câu 2 niêm với 3:
T T B B T T B
T T B B B T T
Câu 4 niêm với 5:
B B T T T B B
B B T T b B T
Câu 6 niêm với 7:
T T B B T T B
T T B B B T T
Câu 8 niêm với 1:
B B TT T B B
8. THẤT NIÊM.
Trong một bài thơ, nếu cả hai câu thơ đặt sai luật, như đang bắt đầu bằng bằng đặt làm trắc trắc hoặc trái lại thế, làm cho cả câu thơ trong bài không niêm với nhau thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền), không được.
9. CÁC BỘ PHẬN TRONG BÀI THƠ.
Cách bố cục một bài thơ:
Một bài thơ bát cú giống như bức tranh. Trong cái khung nhất định 8 câu 56 chữ, làm sao vẽ thành một bức tranh hoàn toàn, hình dung được ngoại cảnh của tạo vật hay nội cảnh của tâm giới. Bởi vậy phải sắp đặt các bộ phận cho khéo. Có bốn bộ phận là: Đề, thực, luận và kết.
1- Đề thì có phá đề (câu 1) là câu mở bài nói lung động cả ý nghĩa trong bài và thừa đề (câu 2) là câu nối với câu phá mà nói đến đầu bài.
2- Thực hoặc trạng (câu 3-4): là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là thơ tả cảnh thì chọn các cảnh sắc xinh đẹp đặc biệt mà mô tả ra, nếu là thơ tả tình thì đem các tình tự giãi bày ra; nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng của người mình muốn vịnh mà kể ra.
3- Luận (câu 5-6): là bàn bạc. Như tả cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp như thế nào; vịnh sử thì hoặc khen hoặc chê, hoặc so sánh người ấy, việc ấy với người khác việc khác.
4- Kết (câu 7-8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại cho mạnh mẽ rắn rỏi.
*************************************************************
II- THƠ TỨ TUYỆT.
Để học làm thành công một bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú thì trước hết, chúng ta nên tập làm thơ Tứ tuyệt cho thật rành rẽ, điêu luyện. Bởi những quy định của thơ Tứ tuyệt cũng là quy định của thơ Đường luật.
1. THƠ TỨ TUYỆT:
Thơ Tứ tuyệt là thơ Đường luật chỉ có 4 câu.
Từ một bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, có 4 cách ngắt để hình thành 4 bài thơ Tứ tuyệt.
Thí dụ:
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm kim cổ soi gương cũ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
BÀ HUYỆN THANH QUAN
Có thể ngắt ra:
1.
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
2.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
3.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm kim cổ soi gương cũ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
4.
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Ngàn năm kim cổ soi gương cũ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
2. BẢNG LUẬT.
Từ thí dụ trên, cho thấy: Thơ Tứ tuyệt có loại 3 vần, có loại 2 vần và có đối hoặc không.
Để dễ nhớ và có thể liên hệ khi đến giai đoạn tập làm thơ Đường luật, các bạn dùng ngay bảng luật của thơ Đường luật và viết cách quãng bảng luật đó ra để trở thành luật của thơ Tứ tuyệt.
Cụ thể:
A- Luật bằng vần bằng:
1: B B T T T B B (v: vần)
2: T T B B T T B (v)
3: T T B B B T T
4: B B T T T B B (v)
1: B B T T B B T
2: T T B B T T B (v)
3: T T B B B T T
4: B B T T T B B (v)
B- Luật trắc vần bằng:
1: T T B B T T B (v)
2: B B T T T B B (v)
3: B B T T B B T
4: T T B B T T B (v)
1: T T B B B T T
2: B B T T T B B (v)
3: B B T T B B T
4: T T B B T T B (v)
Nếu muốn, các bạn làm câu 3 và câu 4 đối nhau thì trở thành bài thơ Tứ tuyệt có đối.
Vì là thơ Luật nên bắt buộc phải làm đúng luật.
Nếu chưa nhập tâm luật, khi làm thơ Tứ tuyệt (hay Đường luật) chúng ta cứ để bảng luật trước mặt mà làm cho đúng luật. Sau khi làm xong, kiểm tra luật lại một lần nữa.
******************************************************
III- PHÉP ĐỐI:
Câu đối là các câu văn đi song song với nhau từng cặp.
Thí dụ:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh
Trong bài thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, bắt buộc phải có đối với nhau giữa các câu 3 và 4. câu 5 và 6.
Muốn câu đối chỉnh và cân, phép đối cần phải hội đủ 3 điều kiện:
-Đối thanh.
-Đối ý.
-Đối từ loại.
1. ĐỐI THANH:
-Bảng luật bằng:
B B T T B B T
T T B B T T B
-Bảng luật trắc:
T T B B B T T
B B T T T B B
Chí ít là các chữ 2,4,6,7 phải theo đúng luật bằng trắc.
2. ĐỐI Ý:
Ý câu trên và ý câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.
Thí dụ:
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
3. ĐỐI TỪ LOẠI.
Danh từ <-> Danh từ.
Danh từ riêng <-> Danh từ riêng.
Danh từ chung <-> Danh từ chung
Động từ <-> Động từ.
Trạng từ <-> Trạng từ.
Tính từ <-> Tính từ.
Tính từ có nhiều loại, nên:
Gợi hình <-> Gợi hình.
Màu sắc <-> Màu sắc.
Mùi vị <-> Mùi vị.
Tượng thanh <-> Tượng thanh.
Số lượng <-> Số lượng.
Tên người <-> Tên người.
Tên nước <-> Tên nước.
Tên địa phương <->Tên địa phương.
Mùa tiết <-> Mùa tiết.
Phương hướng <-> Phương hướng.
Chữ nặng <-> Chữ nặng.
Chữ nhẹ <-> Chữ nhẹ.
Từ kép <-> Từ kép.
Từ đơn <-> Từ đơn.
Thành ngữ <-> Thành ngữ.
Chuyên ngữ <-> Chuyên ngữ.
Hán Việt <-> Hán Việt.
Nôm (thuần Việt) <-> Nôm (thuần Việt).
Hai cặp đối trong thơ Đường luật là tinh hoa của bài thơ. Nó là đặc điểm chính để nhận biết một bài thơ Đường luật. Hai cặp đối này còn giúp đo lường trình độ làm thơ Đường luật của tác giả.
Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật.
*******************************************************
IV- PHÉP HỌA
THƠ ĐƯỜNG LUẬT.
***
1. CÁC THỂ THỨC
HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT.
Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận.
1. HỌA HẠN VẬN:
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn.
- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.
Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
a. Ðầu đề (nội dung) là:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô
b. Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu!... như sau đây:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô
Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:
Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đào Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
- Đầu đề: Xuân Khuê.
- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ.
- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:
Xuân Khuê
Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ
Phan Mạnh Danh
2. HỌA PHÓNG VẬN
Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).
Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
a. Họa Nguyên Vận:
Là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
b. Họa Đảo Vận:
Là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
c. Họa Hoán Vận:
Là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. Họa Tá Vận:
Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.
NHỮNG CHÚ Ý QUAN TRỌNG:
Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng.
Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng.
Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.
Hoạ nguyên vận là phải dùng lại vần đồng âm đồng nghĩa của bài xướng. Nếu dùng vần đồng âm dị nghĩa là không đúng phép hoạ thơ Đường luật.
- Hoạ nguyên vận (mượn vần): dùng vần đồng âm đồng nghĩa (và cùng từ loại).
- Hoạ tá vận: dùng vần đồng âm dị nghĩa (và không cùng từ loại).
*Đồng âm đồng nghĩa là cùng âm (the same sound) cùng nghĩa (synonym);
đồng âm dị nghĩa là cùng âm (the same sound) nhưng khác nghĩa (the difference meaning).
HOÀNG THỨ LANG sưu tầm và biên soạn.
*****************************************************
PHẦN QUAN TRỌNG
TRONG HỌA THƠ.
Họa Thơ bao gồm 3 phần chính quan trọng sau đây:
Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng.
Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
1. Họa vần:
Năm vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1 - 2 - 4 - 6 - 8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi.
Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị lỗi (Fail).
2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.
3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.
Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).
Tóm lại 3 yếu tố 1 - 2 - 3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.
Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt
Bài Xướng:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Tôn Thọ Tường)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
Bài Họa:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Phan Văn Trị)
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Hoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn.
*****************************************************
CHÚ Ý
KHI HỌA THƠ.
Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa, dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.
Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú. Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8. Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).
Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.
Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.
Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.
Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
Thí dụ:
Bài xướng:
Vườn rau Cẩm Tú
Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
Củ cải gieo gần dây mướp đắng
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
Thì là diếp cá lên muôn lối
Húng đổi cần tây mọc khắp đàn
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
Tha hồ cải thiện bữa ăn... sang
Cẩm Tú
Bài hoạ:
Vườn rau Cẩm Tú
Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại... sang
Hoàng Thứ Lang
Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.
5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.
Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài họa phải cùng một tựa đề với bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng!
Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.
Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.
Hoàng thứ Lang sưu tầm và biên soạn
*****************************************************
HÀM Ý TRONG XƯỚNG HỌA.
Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.
Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng.
Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.
Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.
Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.
Hoạ thơ là "vẽ lại" hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.
Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.
Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.
Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.
Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng họa với nhau, có thể dùng thể thức Họa Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai, xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ.
Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào họa nguyên vận theo chính họa được. Chúng ta có thể họa tá vận (mượn vần) theo bàng họa là xa xa, từ xa, đàng xa v.v... chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.
Thông vận, bàng đối và bàng hoạ... không xuất sắc.
Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.
Hoàng Thứ Lang sưu tầm và biên soạn.
*****************************************************
NHỮNG BÀI THƠ MINH HỌA CHO CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ.
1. HOẠ HẠN VẬN:
Thí dụ:
- Hạn đề:
"Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô"
- Hạn vận:
Xô - Cô - Vô - Ô - Rô
Bài họa:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi giống nhảy rô
2. HỌA PHÓNG VẬN:
Thí dụ 1:
a. Họa nguyên vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi
Về đâu trên vạn nẻo đường đời
Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi
Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi
Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý
Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời
Dòng sông ly biệt nào chia lối
Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
b. Họa đảo vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi
Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời
Hai hàng lệ tủi than trời hỡi
Một áng thơ sầu khóc bạn ơi
Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp
Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời
Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ
Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
c. Họa hoán vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời
Trao người yêu dấu của tôi ơi
Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối
Bến mộng đôi bờ phải khác nơi
Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ
Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi
Ai xui hai đứa mình dang dở
Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
d. Họa tá vận (mượn vần):
Bài xướng:
TRUNG THU
Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm
Hoàng Thứ Lang
Oct 05, 2006
Bài họa:
XIN XĂM
Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
Khấn nguyện bình an đến trọn năm
Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
Đưa tay vói rút ồ hên quá
Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm
Trâm Anh
Oct 06, 2006
HOÀNG THỨ LANG.
*******************************************************
V- LUẬT VỀ ĐIỆU THƠ.
Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai, dễ đọc, để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu.
Điệu thơ gồm có 3 phần chính:
1. Nhịp điệu:
Thơ Đường luật nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa (2-2-3 hoặc 4-3)
2. Âm điệu:
Nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng.
3. Vần điệu:
Nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu với tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc.
HOÀNG THỨ LANG
*****************************************************
VI- ĐỐI NGẪU
TRONG THƠ ĐƯỜNG
***
ĐỐI NGẪU - LÀ MỘT VẺ ĐẸP ĐẶC SẮC, LÀ MỘT TRONG NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT.
Tôi được biết, người sáng tác thơ luật Đường khi bắt gặp một cảnh huống thơ, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn nó lên giấy mực. Chưa xong. Người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ trong bài có thanh trắc phải xấp xỉ số thanh bằng. Nếu ta gọi chữ có thanh bằng là số (+), chữ có thanh trắc là số (-), thì luật âm dương này thăng giáng bù trừ sát sao đến từng liên thơ, đến cả bài thơ. Đó chính là điều hé mở khái niệm về sự cân bằng, có ý nghĩa triết học cổ phương Đông nằm trong hình thức thơ Đường luật.
- Ý nghĩa triết học nêu trên còn thể hiện rõ ở phép đối ngẫu.
Trong một liên thơ (hai câu) được gọi là có đối, thì câu trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó nương vào nhau làm cho ý thơ thêm mạch lạc.
Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả đưa đối ngẫu vào thể thơ này như một điều bắt buộc.
Từ đầu thế kỷ trước, đối mặt với sự thắng thế của phong trào thơ mới, Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ thành danh, không nỡ bỏ hẳn thơ Luật Đường, ông đã sáng tác nhiều bài thơ không đối, chỉ giữ lại có luật hạn câu, hạn chữ, hạn vận, hạn bằng trắc. Vũ Hoàng Chương xem những bài thơ đó chỉ là một thực nghiệm. Sau đó, song song với việc sáng tác thơ mới, ông còn sáng tác nhiều bài thơ luật nghiêm chỉnh khác (như bài đa thủ “Giấc mơ tái tạo”).
Chúng ta nay một khi đã gửi hồn cho thể thơ luật Đường thì đừng có bao giờ bực bội giữa khi đang có hồn thơ lai láng, lại bị nghẽn bởi hai cặp đối ở hai câu thực, luận và nóng vội cho rằng: làm gì mà phải đối chặt chẽ vậy.
***
- Đối ngẫu trong thơ đường luật bát cú, thất ngôn, ngũ ngôn nói tổng quát là có 2 phép: Phép chỉnh đối và phép khoan đối.
Dưới đây chúng tôi xin được trao đổi về 2 phép đối này. Các ví dụ được nêu ra để phân tích, chúng tôi lấy từ một số bài thơ đã in trong “Thơ Đường quê lụa” tập 5, NXB Văn hóa Dân tộc, 2008.
PHÉP CHỈNH ĐỐI:
Nguyễn Thu Hà, người trẻ tuổi nhất của CLB, trong bài “Duyên quê”, cặp thực, đối như sau:
Anh nắm bàn tay thon ấm áp,
Em cười đôi mắt sáng long lanh.
Thật là chỉnh, thật là chính danh: anh với em, bàn tay với đôi mắt (Danh từ đối với Danh từ), Thon với sáng (Tính từ đối với nhau), ấm áp với long lanh (Trạng từ láy đối nhau). Hai câu thơ tình đằm thắm đến thế mà lại không thấy lả lơi. Thu Hà đã huy động phép đối rất nghiêm để đạt hiệu quả.
Hạnh Anh (Đỗ Biện), trong bài “Đêm thu” câu 5,6 đối như sau:
Hoa cúc bâng khuâng ly rượu ngát
Hoa nhài thao thức chút hương phôi.
Cặp đối chính danh này rất nghiêm về thể thức, nhưng lại rất hào hoa.
Cụ Tạ Đăng Viên, ngoại 80, có bài “Tự thọ” rất hóm hỉnh, cụ có cặp luận:
Kính mắt gà đeo tròng chấp chới
Gậy càng cua chống bước lon ton.
Bằng hai câu đối chặt chẽ, như vẽ nên, như trông thấy một cụ đại thọ nhanh nhảu hồn nhiên trước mắt ta.
PHÉP KHOAN ĐỐI:
Để cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh hoạt hơn.
Phép lưu thủy đối:
Ví dụ:
Còn chăng lời hẹn bên trang sách,
Hay đã tàn theo ánh lửa đèn.
Theo quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là bất đối. Nhưng lại xét: Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau; mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới làm lọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy đối.
Tất cả các liên thơ mà câu trên bắt đầu bằng mấy chữ tương tự như: còn chăng…,đã sinh…, bỗng dưng…, ứng với đầu câu dưới là các chữ tương tự như: hay đã…,phải có…, để mà…, v.v. thì liên thơ đó đã theo phép đối nói trên.
Phép tá tự đối:
Ví dụ:
Nghèo sạch, thanh danh nên gắng giữ
Giầu sang, khó tính chớ nên chơi.
Câu trên, “thanh danh” là danh từ, câu dưới “khó tính” là tính từ, xét thế thì quả là bất đối. Nhưng nếu theo tiếng (không theo nghĩa thật), thì chữ “khó”, chữ “thanh” lại là tính từ; Chữ “danh” và chữ “tính” lại là danh từ. Xét theo cách này thì chúng lại đối chặt chẽ với nhau. Phép đối này người ta lợi dụng sự đồng âm dị nghĩa để Tá tự đối (như: hai mái trống tung đành chịu dột/ tám giờ chuông điểm phải nằm co – của Tú xương).
Phép số tự đối gắn với Tá tự đối.
Ví dụ:
Học bẩy nghề còn lo thất nghiệp
Làm ba vụ vẫn đói tư mùa.
Hơi tiếc, ở câu dưới viết: ba vụ đối với tư mùa, tuy là đúng có nội đối ở trong câu, nhưng không hay bằng câu trên: bẩy cái nghề và thất (mất) cái nghiệp. Câu dưới, nếu không vì luật bằng trắc, mà viết là: “Làm tư vụ vẫn đói tứ mùa”, thì câu đối này được xếp vào hạng tuyệt diệu. Phép đối này được xem như là phép số tự đối có kèm theo lối chơi chữ (có thể liên hệ đến: nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc - của bà Huyện Thanh Quan).
Phép cú trung đối:
Ví dụ:
Màn trời chiếu đất con người khổ
Nước vật thuyền xơ cá biển nghèo
Nếu câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai câu này cũng bất đối. Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy: màn trời đối với chiếu đất; nước vật đối với thuyền xơ; đuôi câu trên (con người khổ) đối rất chặt với đuôi câu dưới (cá biển nghèo). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại rất cân bằng. Đây là cú trung đối.
Tuy nhiên còn một số phép đối khác chúng ta ít vận dụng, xin được dẫn ra đây để cùng tham khảo.
a) Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ?
Xương gà da cóc, có đau không?
(Nguyễn Khuyến)
b) Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
(Hồ Xuân Hương)
*
c) Công đức tu hành, sư có lọng
Xu hào rủng rỉnh, mán ngồi xe.
(Tú Xương)
Chúng ta để ý: Cụ Nguyễn Khuyến cũng như nữ sỹ Xuân Hương đã tổ chức từ ngữ ở từng câu, để câu nào cũng có tiểu đối, nhưng ta không xếp hai liên đối a,b nêu trên vào phép Cú trung đối, vì ngoài phần có tiểu đối, trong từng câu còn có phần bất đối. Do đó hai liên thơ a, b trên chúng ta quy vào phép Tựu cú đối.
Trong câu của Tú Xương, ông Tú đã đem cả hai cụm từ như hai thành ngữ để chọi nhau: công đức tu hành chọi với xu hào rủng rỉnh. Mặt khác đuôi của từng câu lại đối rất chặt với nhau: sư có lọng đối với mán ngồi xe. Phân tích đặc điểm này để kết luận: đây cũng là phép Tựu cú đối như a và b. Cú trung đối và Tựu cú đối, có dạng thức ngữ pháp của câu văn na ná như nhau, nên còn có tên chung là Đương đối.
Phép giao cổ đối:
Cụ Trần Tuấn Ngọc, trong bài “Tự nhủ”, (Bạn và thơ là xuân – NXBVHDT, Hà Nội 2004), có câu luận:
Chân bước vững, đường chiều khấp khểnh
Rừng cây rậm rạp, trúc vươn cao.
Đây chính là phép Giao cổ đối: chân bước vững đối chéo xuống với trúc vươn cao, và rừng cây rậm rạp đối chéo lên với đường chiều khấp khểnh.
Phép bất đối chi đối:
Trong buổi lễ tế “Trận vong tướng sỹ” thế kỷ 19, quan tổng trấn Nguyễn Văn Thành có sai trưng câu đối chữ Hán (nay dịch nghĩa) như sau:
Bóng chiều đã ngả đâu quê cũ
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
Câu trên lấy từ thơ Thôi Hiệu, bài Hoàng Hạc Lâu. Câu dưới lấy từ thơ Vương Hàn, bài Lương Châu Từ.
Cái hay của đôi câu đối này là: Ghép hai câu thơ khác nhau của hai tác giả mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý. Câu 1 có đại ý là cảm thán tình cảnh, câu hai có đại ý là an ủi vong linh. Thật là quá hợp với nội dung Tế Trận Vong Tướng Sỹ. Đây là phép bất đối chi đối, lấy cái không đối để đối, không lệ thuộc vào mặt chữ mà chỉ chú trọng đến ý. Ý phải đối nhau, cấu trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng với
nhau.
Những bậc cao niên khuyên rằng, nếu một khi ta chưa thật thạo về các phép đối, thì chỉ nên sử dụng các phép chỉnh đối, lưu thủy đối, cú trung đối. Còn các phép đối khác, chúng ta hãy chỉ làm quen, giúp chúng ta nhận biết được các dạng thức đối khác nhau.
Vẫn phải thưa thêm: các phép đối thơ, dù ở dạng thức nào đều phải hội đủ 3 đặc điểm:
- Đối ý. Ý câu trên và câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.
- Đối thanh âm. Chí ít là các chữ nằm ở vị trí 2, 4, 6, 7 (Thơ thất ngôn) và 2, 4, 5 ( Thơ ngũ ngôn) nhất thiết phải tuân theo luật bằng trắc.
- Đối từ loại: danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ. Phải nắm được các phép biến đổi từ loại ở các ngữ cảnh khác nhau. Tuy nhiên, cũng có phép đối không yêu cầu đối từ loại như theo phép chiếu chữ, mà ở đó lại có sự xoay chiều để đối chéo cho nhau.
Viết bài này tôi chỉ nhằm mục đích trao đổi thêm về vấn đề đối ngẫu trong thơ Đường luật. Trong một bài thơ, những cặp đối ở các câu thực, luận chính là vẻ đẹp đặc sắc, và là một trong những điều kiện cần và đủ để nhận ra đó là một bài thơ Luật đường. Đọc thơ Đường luật mà không có đối thì chẳng khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm” thật là nhạt nhẽo và vô vị.
Trong bài này, việc đặt vấn đề của tôi là chắc chắn đúng nhưng việc lấy ví dụ để phân tích thì có thể có chỗ còn nông cạn, thậm trí có chỗ còn thiếu sót. Để góp một chút lửa thắp sáng cho thơ Đường đất Việt, rất mong bạn đọc rộng lượng và cùng đồng hành.
NGUYỄN VĂN THỤ
Chủ nhiệm CLB thơ đường Hà Nội
**********************************************************
VII- CÁC THI BỆNH TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT:
(Bài viết được sưu tầm và hiệu chỉnh, nếu có gì sơ sót, mong các bạn châm chước, hoặc có bổ sung gì; thì xin vào mục Góp Ý - Thắc Mắc).
*****
(Ghi chú: Những bệnh và lỗi sau đây là những sưu tầm trên mạng. Chỉ riêng luật Bằng Trắc và Niêm Luật thì phải theo, còn ngoài ra; tùy theo mỗi người có một quan điểm riêng, chứ không bắt buộc, ai cảm thấy thích thì theo).
Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường luật nổi tiếng với niêm luật chặt chẽ và mức độ khó khi làm một bài thơ hoàn chỉnh. Sau đây, tôi xin phép viết lại một số tài liệu mà tôi đã sưu tầm được để các bạn yêu thích thể loại thơ này có thêm nhiều kiến thức về nó.
-12 lỗi, bệnh trong thơ Đường Luật.
1. Thất luật.
2. Thất niêm.
3. Lạc vận/Cưỡng vận.
4. Thất đối.
5. Khổ độc.
6. Trùng vận. (Điệp Vận)
7. Trùng từ. (Điệp Từ)
8. Trùng ý (Hiệp Chưởng)
9. Phạm đề- Mạ đề.
10. Điệp điệu.
11. Bình đầu.
12. Thượng vỹ.
13. Điệp thanh.
14. Điệp âm.
15. Đại vận.
16. Tiểu vận.
17. Phong yêu.
18. Hạc tất.
19. Chánh nữu.
20. Bàng nữu.
************************
Phân biệt thơ Đường luật và thơ Đường:
Rất nhiều người làm thơ đã lầm lẫn gọi thơ Đường luật là thơ Đường. Thật sự thì đây là 2 ý niệm hoàn toàn khác nhau. - thơ Đường luật (ĐL): là thơ làm theo Thi luật đặt ra từ đời nhà Đường bên Tàu. Các bài thơ này bên Trung quốc được gọi là Luật thi.
Sang Việt
Tóm tắt các lỗi trong thơ Đường Luật:
1. Thất luật:
Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng.
2. Thất niêm:
Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2:
- Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3
- Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5
- Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7
- Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1
Tóm lại: "Chữ thứ hai trong bất kỳ câu nào trong một bài thơ ĐL, đều phải có cùng bằng hoặc trắc với chữ thứ sáu của câu đó".
3. Lạc vận/Cưỡng vận:
- Trong 5 vần mà có một vần khác xen vào.
- Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ. Do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận.
4. Thất đối:
Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ ĐL. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ ĐL nữa.
5. Khổ độc:
- Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu vần, và chữ thứ năm các câu không vần đáng là từ bằng mà đổi ra trắc - Trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu vần và chữ thứ ba các câu không vần đáng là bằng mà đổi ra trắc thì gọi là khổ độc.
6. Trùng vận:
Thơ ĐL chỉ dùng đơn vận, nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng.
Theo thi luật chính thức, nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau và không phạm lỗi. Tuy nhiên, để tránh nghe đọc trùng lặp âm vận không hay, trong bài thơ không nên để hai vần đồng âm gần nhau.
7. Trùng từ:
Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ.
8. Trùng ý (Hiệp Chưởng):
Trong bài thơ ĐL nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dù dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại).
9. Phạm đề/Mạ đề:
Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề.
10. Điệp điệu:
Điệp điệu là khi nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ.
11. Bình đầu:
Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt.
12. Thượng vỹ:
Trong bài thơ ĐL TNBC nếu chữ thứ 5, 6, 7 của nhiều câu liên tiếp (nhiều hơn 3) cùng từ loại và cấu trúc thì bài thơ phạm lỗi thượng vỹ.
13. Điệp thanh:
Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu.
14. Điệp âm:
Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu.
15. Đại vận:
Bài thơ ĐL chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận.
16. Tiểu vận:
Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận.
17. Phong yêu:
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu.
18. Hạc tất:
Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất.
19. Chánh nữu:
Khi câu có từ 3 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu phạm lỗi chánh nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần)
20. Bàng nữu:
Trong một liên có từ 4 chữ trở lên có cùng phụ âm đầu thì phạm lỗi Bàng Nữu. (Ngoại trừ từ láy, từ ghép, từ phiên âm quốc tế… thì được tính giảm đi 1 lần).
1. Họa vận đối
đáp
Một người làm
bài xướng lên, một người khác làm bài khác họa lại. Ngoài việc các vần trong
bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, thì ý nghĩa còn phải hoặc phụ
theo cho rộng, hoặc trái hẳn lại (phản đề), ví dụ:
HỎI Ả BÁN
CHIẾU
Xướng:
Ả ở nơi nào,
bán chiếu gon?
Chẳng hay
chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh nay
độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng
chưa, được mấy con?
(Nguyễn Trãi)
Họa:
Thiếp ở Tây Hồ
bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi
hết hay còn?
Xuân xanh vừa
độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa
có, hỏi chi con!
(Nguyễn Thị
Lộ)
2. Thủ nhất
thanh (nhất đồng)
Từ đứng đầu
các câu thơ đều giống nhau, ví dụ:
MẸ YÊU
Mẹ đã cho con
thấy cuộc đời
Mẹ, nguồn ánh
sáng chẳng hề vơi
Mẹ từ ngút
ngát hương đồng ruộng
Mẹ hóa thênh
thang ánh biển trời
Mẹ, bát cơm
đầy luôn ấp nhủ
Mẹ, dòng sữa
ngọt mãi trào khơi
Mẹ nâng thực
tiễn hòa chân lý
Mẹ dẫu muôn
phương vẫn dậy lời
(Thu Trang)
3. Thủ nhất tự
Chữ cái đứng
đầu các câu thơ đều giống nhau, ví dụ:
MƠ HOA
Lá trải thêm
mùa ruộm ý nguyên
Lời thương vẫn
ủ nét mơ huyền
Len dòng nhạc
đẫm cung hờn tuổi
Lỗi giọt tơ
nhòa mắt ngẩn duyên
Luống cỏ miền
xa dằn nhụy nắng
Lề sông thuở
cũ mộng hoa thuyền
Lay chiều ước
hẹn trăng viền ngõ
Lẩn khuất
hương tình gợi thúy uyên
(Nguyễn Quốc
Bình)
4. Chiết tự
khoán thủ
Lấy các chữ
cái trong tựa đề làm âm đầu cho các chữ ở đầu mỗi câu thơ, ví dụ:
QUỐC BÌNH
Quang trời nắng dệt ánh nồng say
Uống giọt
nguồn khơi tỏ tháng ngày
Ống kính không
gian tầm sóng phủ
Con thuyền vũ
trụ lướt sao bay
Bao luồng
nghĩa cả từng suy gẫm
Ít khoảng tình
riêng chẳng giãi bày
Ngấm đủ tinh
hoa từ cuộc sống
Hương mùa kết
đọng những vần hay
(Minh Thái)
5. Tung hoành
trục khoán
Dùng cặp câu
đối làm chủ đề cho bài thơ. Các chữ trong vế thứ nhất làm chữ đầu tiên cho 7
câu (trục tung), nguyên vế thứ hai đặt làm câu 8 (trục hoành), ví dụ:
ANH THƯ NƯỚC
VIỆT
“Tròn vun hiếu
nghĩa công dung tỏ
Vẹn giữ kiên
trinh, đức hạnh ngời”
Tròn những tâm
tư nối mạch đời
Vun tình
nguyện ý buổi đầy vơi
Hiếu ghi, xót
dạ nguồn đâu lãng
Nghĩa dệt, sờn
vai gánh chẳng rời
Công mãi lưu
truyền, in sử quý
Dung bền tụ
dưỡng nở trăng khơi
Tỏ trang thục
nữ bừng danh Việt
Vẹn giữ kiên
trinh, đức hạnh ngời
(Nguyễn Quốc Bình)
6. Điệp từ
Tất cả các câu
đều có điệp từ, ví dụ:
CÓ LẼ NÀO
Có lẽ mình
yêu, chả lẽ nào!
Như là nhớ
vậy, nghĩa là sao?
Ngày xui gặp
gỡ lòng xui thoả
Buổi trót
tương tư dạ trót cào
Dõi đất, mơ
nồng hương đất dậy
Nom trời, ước
thoảng gió trời xao
Người thôi
cách biệt tình thôi lỡ
Tựa sát vai
nhau, quyện sát vào
(Nguyễn Quốc
Bình)
7. Song điệp
Tất cả các câu
đều có 2 điệp từ, ví dụ:
CHUYỆN ĐỜI
Vất vất vơ vơ
cũng nực cười
Căm căm cúi
cúi có hơn ai
Nay còn chị
chị anh anh đó
Mai đã ông ông
mụ mụ rồi
Có có không
không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại
dại, chết xong đời
Chi bằng láo
láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn
nói chuyện chơi
(Nguyễn Thượng
Hiền)
8. Lưỡng đầu
xà
Một dạng đặc
biệt của song điệp, cặp điệp từ đứng ở đầu và cuối mỗi câu, cặp sau hoán đổi vị
trí của cặp trước, ví dụ:
HƯƠNG MÙA VÂY
Vây ngõ sông
hồ lượn ngõ vây
Đầy hương ủ
nhụy ngát hương đầy
Núi vờn quãng
bổng tiêu vờn núi
Mây dạo cung
trầm én dạo mây
Nhỏ bước ghìm
âm dằn bước nhỏ
Gầy trăng dợn
ảnh vỡ trăng gầy
Khẽ lùa cánh
mỏng, tơ lùa khẽ
Cây ngả vai chiều...
bóng ngả cây
(Nguyễn Quốc
Bình)
9. Lưỡng đầu
xà nghịch thiệt
Một dạng đặc
biệt của song điệp, cặp điệp từ đứng ở đầu và cuối mỗi câu, cặp sau là cách nói
lái của cặp trước (nghịch thiệt với nghĩa là trẹo lưỡi), ví dụ:
NHỊP ĐÀN MƯA
Đàn mưa réo
rắt chuyển đưa màn
Lan rối nương
chiều cuộn lối ran
Ráng lợp phù
vân chừng rợp láng
Giàn treo ảo
nguyệt ngỡ gieo tràn
Thả ngầm ý dõi
hương thầm ngả
Chan đậm sương
kề ánh chậm đan
Thẹn vấu sườn
non tình thấu vẹn
Làn suôn tóc
chảy... đẫm luôn sàn!
(Nguyễn Quốc Bình)
10. Nói lái
Một dạng đặc
biệt của song điệp, cặp điệp từ đứng ở bất kỳ vị trí nào trong câu, cặp sau là
cách nói lái của cặp trước, ví dụ:
HƯƠNG MÙA
Lá trải hương
chiều... trái lả say
Tở manh nắng sẫm mảnh tơ dày
Đông về ả lúa vê đồng quyện
Cánh xẻ anh chuồn xé cảnh lay
Nhằm đá vàng so, đà nhắm buổi
Ngỡ đôi lứa nhịp, đỗi ngơ chày
Bên thềm xoắn xỏa thêm bền ý
Tịnh lứa cau trầu lựa tính ngay!
Tở manh nắng sẫm mảnh tơ dày
Đông về ả lúa vê đồng quyện
Cánh xẻ anh chuồn xé cảnh lay
Nhằm đá vàng so, đà nhắm buổi
Ngỡ đôi lứa nhịp, đỗi ngơ chày
Bên thềm xoắn xỏa thêm bền ý
Tịnh lứa cau trầu lựa tính ngay!
(Nguyễn Quốc
Bình)
11. Tam điệp
Tất cả các câu
đều có 3 điệp từ (điệp ngữ), ví dụ:
CHO ĐỜI SẮC
HƯƠNG
Một chút hờn
ghen một chút hờn
Ngõ sầu đơn
lạnh ngõ sầu đơn
Hồn thơ thẩn
ngóng hồn thơ thẩn
Giấc chập chờn
in giấc chập chờn
Ngăn bởi oán
cừu ngăn bởi oán
Trải bằng ơn
nghĩa trải bằng ơn
Tường câu đạo
lý tường câu đạo
Chẳng úa sờn
duyên chẳng úa sờn
(Nguyễn Quốc
Bình)
12. Bát điệp
Tất cả các câu
đều nhắc lại 1 từ, ví dụ:
XUÂN VĨNH TẠI
Xuân này góp
nữa, bảy lăm xuân
Mải miết xuân
qua những đỉnh trần
Phước phận
duyên tuỳ xuân hảnh trí
Xuân ngùi dạ
ái nộ bi phân
Dang tay tuổi
dệt bừng xuân sáng
Điểm tóc xuân
khai dõi tuế ngần
Trải suốt cung
đường xuân vĩnh tại
Tâm bình đối
diện ắt xuân ngân
(Nguyên Lê)
13. Bát điệp
độc vận
Tất cả cá câu
đều nhắc lại 1 từ, toàn bài dùng 1 từ vần, ví dụ:
XUÂN VÀ THƠ
Xuân tự ngàn
xưa, bạn với Thơ
Tình Xuân là
cả vạn lời Thơ
Ðẹp duyên hoa
bút, Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân
thiều, nhạc ánh Thơ
Xuân vắng,
oanh hờn, dầu dáng liễu
Xuân về hương
tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương,
thi sĩ, đôi người ngọc
Dệt mộng ngày
Xuân, lộng ý Thơ
(Lạc Nam )
14. Dĩ đề vi
thủ
Lấy các từ của
tựa đề làm chưcx mở đầu cho các câu thơ, ví dụ:
CHÍ CHẲNG CHỜ
NGÀY, TÀI KHÔNG ĐỢI TUỔI
Chí hạnh dường
thông, ắt tỏ mình
Chẳng vì mất
được cõi tam sinh
Chờ thanh ý
ngọc bền tay giũa
Ngày sáng bờ
vui trải diễm tình
Tài đặng nhân
bồi xua hắc ám
Không ghì, oán
xả chói anh minh
Đợi, lay tiềm
thức bừng ân điển
Tuổi hội tâm
an, vững cước trình
(Nguyễn Quốc
Bình)
15. Dĩ đề vi
vận
Lấy cácc từ
của tựa đề làm vần của bài thơ, ví dụ: Không Chồng Trông Bông Lông
MUỐN LẤY CHỒNG
Bực gì bằng
gái chực phòng không
Tơ tưởng vì
chưng một tấm chồng
Trên gác rồng
mây ngao ngán nhẽ
Bên trời cá
nước ngẩn ngơ trông
Mua vui lắm
lúc cười cười gượng
Giả dại nhiều
khi nói nói bông
Mới biết có
chồng như có cánh
Giang sơn gánh
vác nhẹ bằng lông
(Nguyễn
Khuyến)
16. Toán thi
Mỗi câu đều có
từ chỉ con số, ví dụ:
BÓI SỐ
Ruột rối bòng
bong, một lá thuyền
Ngổn ngang
trăm mối vẫn y nguyên
Người đi nghìn
dặm còn thêm nhớ
Kẻ ở muôn năm
vẫn lẻ duyên
Mớ hoảng, có
kêu thời cũng hão
Ức thầm, dẫu
khóc chỉ thêm huyền
Vạn người, ai
kẻ chung tâm sự
Hãy triệu giùm
tôi chú đỗ quyên
(Bùi Tiến)
17. Hoán vận
Có hai bộ vần
được gieo ở các vị trí của chữ thứ 5 và chữ thứ 7, khi hoán đổi vị trí hai chữ
này thành ra hai bài có vần bằng và trắc khác nhau, ví dụ:
BIỂN NHỊP HÒA
Vần bằng:
Sóng biển dâng
trào vũ điệu êm
Ngàn dương réo
rắt phủ tơ mềm
Mưa khều ý
nhạc hoa bừng trỗ
Nắng dẫn men
đời nụ ngấm thêm
Vẳng gió tìm
đôi quàng giữa bụi
Dềnh trăng vẽ
nửa nhú bên thềm
Như vừa gội
loáng tơ dòng chải
Lọn tóc sương
hờ... giũ nhẹ đêm
Vần trắc:
Sóng biển dâng
trào êm điệu vũ
Ngàn dương réo
rắt mềm tơ phủ
Mưa khều ý
nhạc trỗ bừng hoa
Nắng dẫn men
đời thêm ngấm nụ
Vẳng gió tìm
đôi, bụi giữa quàng
Dềnh trăng vẽ
nửa, thềm bên nhú
Như vừa gội
loáng chải dòng tơ
Lọn tóc sương
hờ... đêm nhẹ giũ
(Nguyễn Quốc
Bình)
18. Thuận
nghịch độc
Lối thơ này
xuất phát từ "Hồi văn thi" tức là đọc xuôi hay đọc ngược thì câu thơ,
bài thơ đều có nghĩa. Có nhiều dạng thuận nghịch độc như:
* Đọc ngược từ
cuối bài lên, thành ra bài thơ khác, ví dụ:
XUÂN KHAI
Thuận:
Mai nhụy thắm
vàng nở trước sân
Nắng in vờn
mỏng cánh vai trần
Đài che lá
thẹn lời thêm ái
Nụ cởi hoa hờn
nét điểm ân
Trai đẹp kẻ
tìm môi mọng ướt
Gái xinh người
đợi mắt trong ngần
Cài khuy áo
lụa màu yêu Tết
Khai rượu rót
nồng giọt đẫm Xuân
Nghịch:
Xuân đẫm giọt
nồng rót rượu khai
Tết yêu màu
lụa áo khuy cài
Ngần trong mắt
đợi người xinh gái
Ướt mọng môi
tìm kẻ đẹp trai
Ân điểm nét
hờn hoa cởi nụ
Ái thêm lời
thẹn lá che đài
Trần vai cánh
mỏng vờn in nắng
Sân trước nở
vàng thắm nhụy mai
(Hoài Phố)
* Đọc ngược từ
cuối bài lên, vẫn ra bài thơ y hệt, ví dụ:
CHIỀU SA PA
Hương mùa dịu
ngát ủ chiều sương
Lịm áng trầm
mây, diễm ảo nhường
Mường bản rỡ
hoa, ghìm nhịp bước
Lũng sườn
ngang bóng ẩn tà dương
Dương tà ẩn
bóng ngang sườn lũng
Bước nhịp ghìm
hoa, rỡ bản mường
Nhường diễm ảo
mây, trầm áng lịm!
Sương chiều ủ
ngát, dịu mùa hương
(Kỳ Hoa)
* Đọc ngược từ
cuối mỗi câu lại, thành ra bài thơ khác, ví dụ:
TRĂNG CHIỀU
Thuận:
Sóng dạo
thuyền lay ráng đỏ chiều
Võng gài tơ nắng thả hồn phiêu
Dồn loang ngấn bọt tầng cao thấp
Đọng sũng diềm mây chỏm ít nhiều
Thưa nhánh cỏ xòe phơ phất nhạn
Mỏng làn sương ngút dật dờ tiêu
Hòa giao ánh mộng trời riêng ngỡ
Bóng nguyệt kề non vách xoải diều
Võng gài tơ nắng thả hồn phiêu
Dồn loang ngấn bọt tầng cao thấp
Đọng sũng diềm mây chỏm ít nhiều
Thưa nhánh cỏ xòe phơ phất nhạn
Mỏng làn sương ngút dật dờ tiêu
Hòa giao ánh mộng trời riêng ngỡ
Bóng nguyệt kề non vách xoải diều
Nghịch:
Chiều đỏ ráng lay thuyền dạo sóng
Phiêu hồn thả nắng tơ gài võng
Thấp cao tầng bọt ngấn loang dồn
Nhiều ít chỏm mây diềm sũng đọng
Nhạn phất phơ xòe cỏ nhánh thưa
Tiêu dờ dật ngút sương làn mỏng
Ngỡ riêng trời mộng ánh giao hòa
Diều xoải vách non kề nguyệt bóng
(Nguyễn Quốc
Bình)
* Đọc ngược từ
cuối mỗi câu lại, thành ra bài thơ y hệt, ví dụ:
LỜI THƯƠNG BÊN
CÁNH VÕNG
Mỏng tiếng ru
hời ru... tiếng mỏng!
Võng thưa đều nhịp đều thưa võng
Ươm dày cội nghĩa cội dày ươm
Đọng thắm chồi ân chồi thắm đọng
Lời vẳng bước con bước vẳng lời
Bóng vươn tình mẹ tình vươn bóng
Quang trời hẹn ước hẹn trời quang
Mọng trĩu làn hương, làn trĩu mọng
Võng thưa đều nhịp đều thưa võng
Ươm dày cội nghĩa cội dày ươm
Đọng thắm chồi ân chồi thắm đọng
Lời vẳng bước con bước vẳng lời
Bóng vươn tình mẹ tình vươn bóng
Quang trời hẹn ước hẹn trời quang
Mọng trĩu làn hương, làn trĩu mọng
(Nguyễn Quốc
Bình)
* Một nửa bài
là các câu thơ đọc xuôi, một nửa bài là các câu trên đọc ngược lên tạo thành
một bài thơ hoàn chỉnh, ví dụ:
THUỞ HOA NIÊN
Thương người
áo nhẹ giũ mùa hương
Thả gót chiều quen bạn vắng trường
Tường bám mảng rêu ùn gió chạnh
Lá viền khung cảnh lắng hồn vương
Vương hồn lắng cảnh, khung viền lá
Chạnh gió ùn rêu, mảng bám tường
Trường vắng bạn quen chiều gót thả
Hương mùa giũ nhẹ áo người thương
Thả gót chiều quen bạn vắng trường
Tường bám mảng rêu ùn gió chạnh
Lá viền khung cảnh lắng hồn vương
Vương hồn lắng cảnh, khung viền lá
Chạnh gió ùn rêu, mảng bám tường
Trường vắng bạn quen chiều gót thả
Hương mùa giũ nhẹ áo người thương
(Nguyễn Quốc
Bình)
19. Liên hoàn
Bài thơ gồm
nhiều đoạn, câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới, ví
dụ:
THI LẤY ĐƯỢC
Anh Phán nhà
ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham
biện cũng ra thi
Nhất thì anh
đỗ, nhì anh trượt
Chẳng đậu khoa
này, khoa khác đi
Chẳng đậu khoa
này, khoa khác đi
Một, hai, ba,
bốn, năm năm trượt
Nhẵn mặt quan
trường, chẳng thẹn chi
Nhẵn mặt quan
trường, chẳng thẹn chi
Trượt thi, thi
trượt, vẫn gan lì...
(Tú Mỡ)
20. Liên hoàn
thuận nghịch vận
Thể thơ như
trên, nhưng bài thứ sau sắp xếp ngược vần với bài trước (nếu câu cuối bài sau
lặp lại cầu đầu của bài trước, còn được gọi là “Thủ vĩ tương lân”), ví dụ:
VẾT THƯƠNG CỦA
CHA
Rồi cha giã
biệt mái tranh nghèo
Lý tưởng soi
đàng dẫn bước theo
Hỏa tuyến vùi
canh màn pháo rộ
Biên khu ngẩng
mặt ánh châu vèo
Quân hành
những lúc mồ hôi tủa
Chiến đấu bao
lần máu thịt gieo
Giữ trọn niềm
tin ngày đại thắng
Và, trong một
trận vết thương đèo
Và trong một
trận vết thương đèo
Khúc nhạc sa
trường bỏ nốt gieo
Cuộc sống gia
đình, tay trụ vững
Guồng quay xã
hội, chí thông vèo
Sinh thời
quyết ý không dừng lại
Tử hạn xem
chừng mãi bám theo
Phút cuối đành
quên lời nhắn gửi
Rồi cha giã
biệt mái tranh nghèo...
(Nguyễn Quốc
Bình)
21. Ô thước
kiều
Thể thơ liên
hoàn như trên, nhưng chỉ lấy 2 từ cuối, hoặc nhắc lại 2, 3 từ nào đó ở câu cuối
của bài trên để mở đầu cho câu đầu của bài dưới, ví dụ:
CHỐNG TÔN THỌ
TƯỜNG
Lung lay lòng
sắt đã mang nhơ
Chẳng xét phận
mình khéo nói vơ
Người trí mang
lo danh chẳng chói
Ðứa ngu luống
sợ tuổi không chờ
Bài hòa đã sẵn
in tay thợ
Cuộc đánh hơn
thua giống nước cờ
Chưa trả thù
nhà,đền nợ nước
Dám đâu mắt
lấp với tai ngơ
Tai ngơ sao
đặng lúc tan tành
Luống biết
trách người, chẳng trách mình
Ðến thế còn
khoe đàng đạo nghĩa
Như vầy cũng
gọi kẻ trâm anh
Biển khơi vụng
tính dung thuyền nhỏ
Chuông nặng to
gan buộc chỉ mành
Thân có,ắt
danh tua phải có
Khuyên người
ái trọng cái thân danh
Thân danh
chẳng kể, thật thằng hoang
Ðốt sáp nên
tro lụy chẳng màng
Hai cửa trâm
anh xô sấp ngửa
Một nhà danh
giá xóa tan hoang
Con buôn khấp
khởi chưa từng ngọc
Người khó xăng
xăng mới gặp vàng
Thương kẻ đòng
văn nên phải nhắc
Dễ đâu ta dám
tiếng khoe khoang
(Phan Văn Trị)
22. Tập danh
* Mỗi câu có
danh từ gắn với đề tài, ví dụ:
MỪNG ÔNG LÃO
HÀNG THỊT THƯỢNG THỌ
Nay tiết mừng
ông mới Bảy mươi,
Cổ hy (1) chưa
dễ mấy lăm người
Răng long
nhưng hãy còn tinh mắt
Ðầu bạc nhưng
mà chửa tắc tai
Bè bạn bày vai
kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dưới
gối múa sân Lai (4)
Xưa nay vẫn
giữ lòng chân thực
Chữ đức giả
xương máu để đời
(Nguyễn
Khuyến)
Chú thích
(1) Ý từ câu
"nhân sinh thất thập cổ lai hy"
(2) Rót rượu
mời người khác uống
(3) Lý Bạch,
nhà thơ thời Nhà Đường, nổi tiếng uống rượu làm thơ
(4) Lão Lai,
người nước Sở đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài 70 còn cha mẹ, giả cách khóc như trẻ
con để làm cho cha mẹ vui
* Mỗi câu thơ
có từ chỉ bộ phận trong thân thể con người, ví dụ:
HỌC TRÒ
Dài lưng tốn
vải lại ăn no
Nghĩ ngán cho
thân phận học trò
Thù nước, thù
vua, ngay mặt chịu
Công sưu, công
ích, cắm đầu lo
Vẫn giương mắt
ếch mà ra quáng
Còn ngậm lông
mèo (1) chả sợ ho
Nói đến chuyện
đời tai điếc đặc
Rung đùi, chỉ
nghĩ "tám đùi" (2) to
(Nhì Mỹ)
Chú thích
(1) Ngậm lông
mèo: ngậm bút chữ nho
(2) Tám đùi:
văn xưa gọi là "bát cổ" dịch là tám vế, vế (bắp) đồng nghĩa với đùi.
* Mỗi câu nào
có cụm từ là thành ngữ, tên bài hát, sự kiện gắn với đề tài..., ví dụ:
TÌNH ANH LÍNH
CHIẾN
“Đám cưới đầu
xuân” tỏ rạng ngời
“Ngày tròn
tuổi lính” mộng trăng khơi
“Bài ca kỷ
niệm” vầng dương hé
“Nhận diện
thời gian” ánh hỏa mời
“Bóng nhỏ
đường chiều” vương ái ngại
“Đêm dài chiến
tuyến” nhớ chơi vơi
"Lời tình
viết vội” tràng hoa kết
“Mộng ước mai
sau” sánh tuyệt vời
(Nguyễn Quốc
Bình)
23. Tính danh
Câu nào cũng
có từ chỉ nhân danh hay địa danh. Giống như Ðiển thi, câu nào cũng dẫn1 điển
tích, ví dụ:
LỖI THỀ
Vùi oan bạc
mệnh sóng Tiền Ðường (1)
Ngọn đuốc
Chiêm Thành (2) rở nhớ thương
Chắp cánh đẹp
gì câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say mãi
gái Tầm Dương (4)
Lỗi thề Chung
Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây
hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7)
ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà (8)
mưa gió nẻo cầu sương.
(Toại Khang)
Chú thích
(1) Kiều trầm
mình ở sông Tiền Ðường
(2) Công chúa
Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành
(3) Ðường Minh
Hoàng - Dương Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch (Thất tịch) thề cùng nhau
"sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành"
(4) Bạch Cư
Dị, văn hào đời Ðường, đêm đậu thuyền ở sông Tầm làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ
hát
(5) Chung Tử
Kỳ - Bá Nha là 2 bạn tri âm. Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì. Tử Kỳ
chết, Bá Nha đập đàn đi, không gảy nữa
(6) Trương
Quân Thụy - Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên
(7) Chiêu Quân
nhà Hán sang cống Hồ
(8) Ngưu Lang
- Chức Nữ đứng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mưa ngâu trong tháng 7 âm
lịch.
24. Sắc thái
Câu nào cũng
có từ chỉ màu sắc, ví dụ:
CHIỀU NỔI MÀU
THU
Trời thu bóng
ác rực mầu vang
Trườn trượt
vào lưng dặng núi vàng
Cánh nhạn chiều
tà sương lót trắng
Chòm mây mưa
nhạt khói mờ lam
Lầu thu thoát
nắng nâng rèm tía
Vườn vắng còn
đây nở đóa vàng
Nếu chẳng
vương tìm hoa súng tím
Thì đâu được
ngắm nguyệt da cam
(Toại Khang)
25. Thủ vỹ
ngâm
Câu đầu và câu
cuối giống nhau, ví dụ:
KHẼ BƯỚC XUÂN
VỀ
Dợm bước ngang
thềm, ấy hẳn xuân
Mùi hương dịu
khoác vẻ tươi nhuần
Khơi đà mạch
ấm, càn khôn chuyển
Gỡ mảnh sương
già, tuế nguyệt luân
Trắng cúc,
vườn khoe màu giản dị
Vàng mai, ngõ
nhuộm nét đơn thuần
Như ngầm ước
định, muôn loài trỗi
Dợm bước ngang
thềm, ấy hẳn xuân
(Nguyễn Quốc
Bình)
Một dạng biến
tấu, câu cuối lặp câu đầu nhưng không hoàn toàn, vídụ:
BÀN TAY TẠO HÓA
Tạo hóa vươn
tay điểm địa cầu
Vo tròn, bóp
dẹt, bấm nông sâu
Sơ khai chốn
chốn chìm mông muội
Khởi tiếp nơi
nơi bật mỡ màu
Định sẵn hai
phương liền một trục
Phân rành bốn
biển rõ năm châu
Khi nào ngán
cảnh đời xâu xé
Tạo hóa buông
tay... thả địa cầu
(Nguyễn Quốc
Bình)
26. Áp cú
Dùng từ cuối
của câu trên làm từ mở đầu cho câu dưới, ví dụ:
TRÊN CÁNH ĐỒNG
CHIỀU
Đồng ươm nắng
tỏa vút tia hồng
Hồng ửng môi
cười lấp lóa đông
Đông gỡ mành
sương, tròn vị giá
Giá tan, rặng
cỏ đẫy hương nồng
Nồng nàn thảm
lúa khơi mùa rộn
Rộn rã tay
liềm thỏa giấc trông
Trông ánh
tương lai hòa nhịp trẻ
Trẻ thơ tiếp
giọng hát vang đồng
(Nguyễn Quốc
Bình)
27. Vấn nghi
Cuối mỗi câu
đều mang ý câu hỏi, ví dụ:
CÓ VỌNG SANG
MÙA?
Rạng rỡ mi
ngời em có phải ...?
Hồn say luyến
nhớ rồi hay tại ...?
Mơ lời cột
thắm, chỉ nào đang ...?
Hỏi ý thêu
nồng, duyên nọ mãi ...?
Có đặng niềm
thương để trỗ làn ...?
Và lay dấu nguyện
cho hừng trái ...?
Muôn dòng nhắn
nhủ đã tìm gieo ...?
Quyện với
hương ngàn, hoa sẽ trải ...?!
(Nguyễn Quốc
Bình)
28. Triệt hạ
(tiệt hạ)
Từ cuối của
mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa nhưng người đọc tự hiểu
hoặc có thể thêm vào những phương án của riêng mình, ví dụ:
CƠN MÊ TRẺ
Thổn thức, này
em chớ vội mà...
Ươm mầm uất
hận nhẽ làm ra...
Lời đâm toạc
giấy còn như thể...
Ngữ chẻ vành
môi, đúng thật là...
Giận lẫy buông
đời toan rối sự...
Căm hờn rũ
phận sém chìm pha...
Buồn cha, xót
mẹ, đành sao cứ...
Hãy tỉnh dòng
mê sống thực, và...
(Nguyễn Quốc
Bình)
29. Yết hậu
Các câu trên
đều đủ từ cả, riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ, ví dụ:
THỎA GIẤC YÊU
Ai lùa vạt
nắng hương nồng thở
Ai chuốt ngàn
mây chiều rực rỡ
Ai thả hôn
hoàng gội tím thêm...
Nhớ!
Nhớ cuộn theo
dòng, gió mở xem
Nhớ so phím dạ
trỗi thương kèm
Nhớ quay quắt
hỏi đâu hình bóng
Em?
Em giờ đẫm
lạnh màn sương hé
Em khoác mòn
canh, hài cỏ nhẹ
Em lẫn muôn
trùng tiếng vọng ru
Khẽ!
Khẽ giọt trăng
ngà tỏa sắc phiêu
Khẽ như giấc
điệp loáng tơ chiều
Khẽ mùi dịu
ngát, mong chờ thỏa
Yêu!
(Nguyễn Quốc
Bình)
30. Vỹ tam
thanh
Ba từ cuối
trong mỗi câu có cùng cách phát âm, ví dụ:
MÀU TIỄN BIỆT
Cung rền nhạc
tiễn vẻ vè ve
Phổ lẫn màu hoa chóe chọe chòe
Bút gượng đôi vần cun củn cũn
Tay nhoài, bốn mắt hỏe hòe hoe
Dàn phông kỷ yếu tùm tum tụm
Chớp ảnh thời gian xóe xọe xòe
Biệt giã khung trời ngân ngấn ngẩn
Nghiêng mùa, vỡ giọt tóe tòe toe
Phổ lẫn màu hoa chóe chọe chòe
Bút gượng đôi vần cun củn cũn
Tay nhoài, bốn mắt hỏe hòe hoe
Dàn phông kỷ yếu tùm tum tụm
Chớp ảnh thời gian xóe xọe xòe
Biệt giã khung trời ngân ngấn ngẩn
Nghiêng mùa, vỡ giọt tóe tòe toe
(Nguyễn Quốc
Bình)
31. Xa luân
ngũ bộ
Chùm thơ gồm 5
bài theo một chủ đề xuyên suốt. Các câu có vần (hoặc từ vần) của bài đầu tiên
sẽ lần lượt là các câu phá đề (hoặc từ vần cho câu phá đề) của các bài lần lượt
từ 1 đến 5, các vần khác cứ theo trật tự mà luân chuyển. Có thể coi các bài là
một chùm xướng họa mà bộ vần được chuyển tuần tự như bánh xe quay tròn (xa
luân), ví dụ:
TẢO MỘ
Hoa hồng đặt trước mộ phần đây
Dịp lễ Vu Lan
ghé chốn này
Gió chướng ào
ào tung cát bụi
Mưa phùn rả
rích phủ trời mây
Kia mâm lễ mọn
xem vừa thiếu
Nọ bó nhang
thơm xếp tạm đầy
Thổn thức dâng
trào mi nhuốm lệ
Nghẹn ngào nhớ
mẹ nỗi buồn vây
Dịp lễ Vu Lan ghé chốn này
Sương chiều
quạnh quẽ tỏa như mây
Hương trầm kẻ
đốt bay lan nhẹ
Hoa cỏ người
di ngã giập đầy
Đứng tạm bên
mồ lưng gập xá
Quỳ gần sát bệ
gối chùn vây
Đôi lời khấn
đượm yêu, thương, nhớ
Nghĩa nặng
thâm tình bỏ lại đây
Mưa phùn rả rích phủ trời mây
Ráng đỏ còn
vương vệt trải đầy
Ngập kín đường
mòn rêu bủa chặt
Che hờ ngõ tắt
đá chèn vây
Chuông chùa
điểm tới giờ quyên nọ
Tiếng mõ đưa
về giấc nguyện đây
Nấm đất sè sè
bia vẩn bụi
Mờ đi ít chữ
cảm thương này
Nọ bó nhang thơm xếp tạm đầy
Côn trùng não
nuột nhỏ to vây
Nghe lòng tĩnh
mịch cung trầm đó
Vọng tiếng u
hoài vực thẳm đây
Nhạt nhẽo ban
mai dời nắng ấy
Đìu hiu bóng
tối ngợp tim này
Khuỵu chân bái
lạy hoài thân mẫu
Tím cả dương
tà, lẫn sắc mây
Nghẹn ngào nhớ mẹ nỗi buồn vây
Giã biệt nhưng
tình nặng trĩu đây
Luyến tiếc chi
thêm, đành ngoảnh vậy
Kêu than chẳng
đủ, phải quay này
Ngàn thu vĩnh
biệt rưng rưng mắt
Vạn thuở chia
lìa héo hắt mây
Mảnh nhỏ vành
tang cài ngực áo
Hình như cũng
khóc tủi dâng đầy
(Cẩn Vũ)
32. Lộc lư ngũ
bộ
Chùm thơ gồm 5
bài theo một chủ đề xuyên suốt. Một câu có vần dùng làm chủ đề lần lượt được
đặt làm câu phá đề của bài thứ nhất rồi chuyển xuống lần lượt làm câu thừa đề,
rồi các câu có vần trong cặp thực, luận, kết của các bài tiếp theo, các vần
khác cứ theo trật tự mà đẩy lên nhường chỗ cho câu chủ đề. Có thể coi các bài
là một chùm xướng họa mà câu chủ đề được di chuyển tuần tự qua các vị trí như
trục bánh xe tịnh tiến (có ý kiến cho rằng “lộc lư” là cách đọc khác của từ
“lộc lô” tức là con lăn). Trong cách viết hiện nay, rất ít người sử dụng nguyên
bộ vần mà dùng riêng bộ vần cho mỗi bài (nhưng không được trùng nhau, trừ câu
chủ đề), ví dụ:
NGÁT NHỤY XUÂN
ĐỜI
Nhụy dỡ hương
nồng ửng sắc lay
Rồi trưng áo
diện, ngõ xuân bày
Trong miền sự
tích bao hồi chuyển
Giữa nẻo nhân
tình mấy cuộc thay
Đủ những niềm
tin bền thấm hạnh
Đầy muôn ý
tưởng vững khơi ngày
Vươn tầm lỗi
lạc căng bầu huyết
Rượu cũng châm
rồi, để chuốc say
Vầng dương đã
khởi, nét tươi bày
Nhụy dỡ hương
nồng ửng sắc lay
Én xoải tầng
mây dòng thực lãng
Sương viền
rặng núi ảnh trần thay
Hòa con nước
dẫn bồi vun mạch
Vỗ nhịp đời
reo, tiếp chuyển ngày
Lại sẵn huyền
cơ... nguồn ấp ủ
Đây vuờn bướm
lượn, dõi mà say
Đẫm quyện vào
nhau phút tỏ bày
Tơ choàng ánh
lụa ngỡ vừa thay
Đàn lên quãng
nhộn trào cung ví
Nhụy dỡ hương
nồng ửng sắc lay
Tuổi cũ về
giăng triền suối ngọc
Đường xưa giữ
lại dấu chân ngày
Đan vùng niệm
ức, rồi khai mở
Thẫm ngả khung
trời nhấp vị say
Lời thương ướp
mật hãy phô bày
Lẽ tạnh cơn
mù, nắng hửng thay
Dệt khúc thề
trao đừng nhỡ buổi
Dành tia mộng
gửi ắt vương ngày
Ong khều noãn
dịu quơ vòi hứng
Nhụy dỡ hương
nồng ửng sắc lay
Biếc nụ tầm
xuân dường trẻ mãi
Thêu tràn giọt
mắt, ngẩn hồn say
Thỏa Tết, ngàn
hoa diễm tuyệt bày
Tô màu nguyện
ước trải lòng say
Mừng nây cội
nghĩa rồi thơm quả
Chúc đẹp phần
duyên sẽ tỏ ngày
Đỏ pháo hiên
bừng xem vẫn thẹn
Hây đào má
ruộm ngẫm còn say
Trần gian tặng
cả mùa phơi phới
Nhụy dỡ hương
nồng ửng sắc lay
(Nguyễn Quốc
Bình)
33. Phú đắc
Giải thích và
phát triển ý của một câu thơ hay ca dao hay, tục ngữ bằng một bài thơ, nội dung
phải phù hợp với sự việc đó, ví dụ:
GIÀ CÒN MUỐN LẤY CHỒNG
“Bà già đã bảy
mươi tư
Ngồi trong cửa
sổ gửi thư kén chồng”
Đã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư
tuổi có là bao?
Xuân xanh xấp
xỉ hàng răng rụng
Ngày vắng ân cần
mảnh giấy trao
Chữ nhất nhi
chung đành đã vậy
Câu tam bất
hiếu nữa làm sao
May mà lấy
được ông chồng trẻ
Họa có sinh ra
được chút nào?
(Nguyễn
Khuyến)
34. Chơi chữ
Thể thơ chơi
chữ rất phong phú và đa dạng, chỉ xin liệt kê ra đây vài bài mẫu:
* Chơi theo chữ cái:
MUỐN QUY THUYỀN
A (a) di đà Phật muốn quy thuyền
B (bê) bết
lòng tham hãy cứ nguyên
C (xê) xích
cho gần nơi cửa tịnh
Đ (đê) đầu
nguyện dứt mối trần duyên
(Thảo Am)
* Chơi theo dấu câu:
(KHÔNG RÕ TỰA)
Huyền diệu trông lên cửa đạo thuyền
Sắc không khôn
rõ thấu căn nguyên
Nặng nề nghiệp
chướng e chưa hết
Hỏi mấy ai đà
có thiện duyên
(Thảo Am)
BAN QUẢN TRỊ
XƯỚNG HỌA ĐƯỜNG THI
Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa
Phóng Vận.
1. HỌA HẠN VẬN:
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn.
- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.
Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
a. Ðầu đề (nội dung) là:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô
b. Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu !!! ... như sau đây:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô
Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:
Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đão Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
- Đầu đề: Xuân Khuê
- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ
- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:
Xuân Khuê
Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ
Phan Mạnh Danh
2. HỌA PHÓNG VẬN
Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).
Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.
CHÚ Ý QUAN TRỌNG: Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.
Hoạ Thơ bao gồm 2 phần chính quan trọng sau đây:
Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
1. Họa vần: 5 vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1-2-4-6-8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị Fail.
2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.
3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.
4. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).
Tóm lại 3 yếu tố 1-2-3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.
Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học ViệtNam .
Bài Xướng:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Tôn Thọ Tường)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
Bài Họa:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Phan Văn Trị)
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Những bài thơ minh họa cho các thể thức Họa Thơ.
1. HOẠ HẠN VẬN:
Thí dụ:
- Hạn đề:
"Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô"
- Hạn vận:
Xô - Cô - Vô - Ô - Rô
Bài họa:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi giống nhảy rô
2. HỌA PHÓNG VẬN:
Thí dụ 1:
a. Họa nguyên vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi
Về đâu trên vạn nẻo đường đời
Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi
Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi
Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý
Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời
Dòng sông ly biệt nào chia lối
Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
b. Họa đảo vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi
Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời
Hai hàng lệ tủi than trời hỡi
Một áng thơ sầu khóc bạn ơi
Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp
Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời
Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ
Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
c. Họa hoán vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời
Trao người yêu dấu của tôi ơi
Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối
Bến mộng đôi bờ phải khác nơi
Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ
Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi
Ai xui hai đứa mình dang dở
Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
d. Họa tá vận (mượn vần):
Bài xướng:
TRUNG THU
Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm
Hoàng Thứ Lang
Oct 05, 2006
Bài họa:
XIN XĂM
Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
Khấn nguyện bình an đến trọn năm
Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
Đưa tay vói rút ồ hên quá
Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm
Trâm Anh
Oct 06, 2006
Hoạ thơ Đường luật
Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.
Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú.
Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).
Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.
Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.
Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.
Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
Thí dụ:
Bài xướng:
Vườn rau Cẩm Tú
Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
Củ cải gieo gần dây mướp đắng
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
Thì là diếp cá lên muôn lối
Húng đổi cần tây mọc khắp đàng
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
Tha hồ cải thiện bữa ăn...sang
Cẩm Tú
Bài hoạ::
Vườn rau Cẩm Tú
Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại...sang
Hoàng Thứ Lang
Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.
5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.
Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài hoạ phải cùng một tựa đề với bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng !
Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.
Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.
1. HỌA HẠN VẬN:
Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
- Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn.
- Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.
Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
a. Ðầu đề (nội dung) là:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô
b. Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô.
Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu !!! ... như sau đây:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô
Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:
Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đão Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
- Đầu đề: Xuân Khuê
- Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ
- Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:
Xuân Khuê
Một mong hai đợi bốn ba chờ
Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa gối năm canh gà gáy giục
Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ
Phan Mạnh Danh
2. HỌA PHÓNG VẬN
Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).
Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.
CHÚ Ý QUAN TRỌNG: Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.
Hoạ Thơ bao gồm 2 phần chính quan trọng sau đây:
Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
1. Họa vần: 5 vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1-2-4-6-8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị Fail.
2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.
3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.
4. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).
Tóm lại 3 yếu tố 1-2-3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.
Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt
Bài Xướng:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Tôn Thọ Tường)
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh được bụng chồng
Bài Họa:
TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
(của Phan Văn Trị)
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Những bài thơ minh họa cho các thể thức Họa Thơ.
1. HOẠ HẠN VẬN:
Thí dụ:
- Hạn đề:
"Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không ai dám dở mùng chun vô"
- Hạn vận:
Xô - Cô - Vô - Ô - Rô
Bài họa:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi giống nhảy rô
2. HỌA PHÓNG VẬN:
Thí dụ 1:
a. Họa nguyên vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi
Về đâu trên vạn nẻo đường đời
Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi
Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi
Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý
Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời
Dòng sông ly biệt nào chia lối
Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
b. Họa đảo vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi
Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời
Hai hàng lệ tủi than trời hỡi
Một áng thơ sầu khóc bạn ơi
Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp
Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời
Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ
Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
c. Họa hoán vận:
Bài xướng:
TƯƠNG TƯ
Tương giang hai đứa ở hai nơi
Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
Nét chữ run run ý cạn lời
Định số an bài mang khổ hận
Đêm trường thổn thức máu tim rơi
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
Bài họa:
TƯƠNG TƯ
Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời
Trao người yêu dấu của tôi ơi
Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối
Bến mộng đôi bờ phải khác nơi
Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ
Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi
Ai xui hai đứa mình dang dở
Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời
Hoàng Thứ Lang
11/8/05
d. Họa tá vận (mượn vần):
Bài xướng:
TRUNG THU
Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
Cha làm trống ếch đánh quanh năm
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
Chiếc lá chao mình trong gió sớm
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm
Hoàng Thứ Lang
Oct 05, 2006
Bài họa:
XIN XĂM
Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
Khấn nguyện bình an đến trọn năm
Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
Đưa tay vói rút ồ hên quá
Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm
Trâm Anh
Oct 06, 2006
Hoạ thơ Đường luật
Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.
Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú.
Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).
Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.
Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.
Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.
Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
Thí dụ:
Bài xướng:
Vườn rau Cẩm Tú
Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
Củ cải gieo gần dây mướp đắng
Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
Thì là diếp cá lên muôn lối
Húng đổi cần tây mọc khắp đàng
Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
Tha hồ cải thiện bữa ăn...sang
Cẩm Tú
Bài hoạ::
Vườn rau Cẩm Tú
Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
Ngò om óng mượt bên giàn mướp
Húng quế thơm lừng kế luống lang
Bí rợ tần ô lên bít lối
Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại...sang
Hoàng Thứ Lang
Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.
5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.
Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài hoạ phải cùng một tựa đề với bài xướng.
Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng !
Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.
Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.
Ngũ Độ Thanh: Dựa theo Ngũ Độ Thanh từ xưa bên Tàu
áp dụng vào thơ Đường Luật ở Việt Nam . Các câu thơ phải hội đúng 5
dấu thanh trong 6 dấu thanh của tiếng Việt: Không dấu, Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã,
Nặng.
Thủ Vỹ Điệp Ngữ Cú
Sông
Nhớ
Sông đầy buồn bã nhuốm đầy sông
Dòng nhớ người ơi có nhớ dòng
Nguyệt vẫn còn đây đây vẫn Nguyệt
Hồng đâu chẳng thấy thấy đâu Hồng
Nhủ thầm quên hết nên thầm nhủ
Trông đợi mà chi chớ đợi trông
Lỡ đã yêu em giờ đã lỡ
Trong tình đẹp nhất mối tình trong
Quên Đi
***
Cô Độc
Hanh hảnh thu về ánh nắng hanh
Cành đưa theo gió lá theo cành
Thẩn thờ đêm xuống lòng thơ thẩn
Tanh tách mưa buồn cảnh vắng tanh
Mộng vỡ tình tan còn ủ mộng
Hành nhân sức mỏi kiếp cô hành
Hận đời đôi ngả tình ly hận
Xanh đã qua rồi tiếc thuở xanh.
Quên Đi
***
Nhất Vận Thi
Nhất Vận Thi
Làm Thơ
Thời gian thừa mứa tập tành thơ
Tứ bảo văn phòng sẵn đợi thơ
Cắn bút lim dim tìm ý lạ
Giấy buồn ngơ ngác chẳng ra thơ
Cháu con thấy ngộ bu ông nội
Bà xã cười châm ổng nhập thơ
- "Tất cả xê mau đừng léo nhéo
Um sùm như thế khó làm thơ"
Quên Đi
Thời gian thừa mứa tập tành thơ
Tứ bảo văn phòng sẵn đợi thơ
Cắn bút lim dim tìm ý lạ
Giấy buồn ngơ ngác chẳng ra thơ
Cháu con thấy ngộ bu ông nội
Bà xã cười châm ổng nhập thơ
- "Tất cả xê mau đừng léo nhéo
Um sùm như thế khó làm thơ"
Quên Đi
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét