Thể thơ song thất lục bát (hai 7+6-8), cũng được gọi là lục bát gián thất (6-8 xen hai 7) hay thể ngâm là một thể văn vần (thơ) đặc thù của Việt Nam. Một số tác phẩm lớn trong văn chương Việt Nam, trong đó có bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm đã được viết theo thể thơ này.
Thơ song thất lục bát gồm có 2 câu 7 chữ và 1 câu 6 chữ, 1 câu 8 chữ.
Chữ cuối câu bảy trên vần với chữ thứ 5 câu bảy dưới, chữ cuối câu bảy dưới vần với chữ cuối câu lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát. Và chữ cuối câu bát vần với chữ thứ 5 (đôi khi chữ thứ 3) của câu thất tiếp theo.
- ***Song thất lục bát:câu 1: x x t x b x T1
câu 2: x x b x T1 x B1
câu 3: x b x t x B1
câu 4: x b x t x B1 x B2
câu 5: x x t x B2 x T2
câu 6: x x b x T2 x B3
câu 7: x b x t x B3
câu 8: x b x t x B3 x B4
Chú thích:
- -: Không bắt buộc
- T: vần trắc, với các dấu thanh: Hỏi, ngã, sắc, nặng
- B: vần bằng, với các dấu thanh: Ngang (không) hay huyền
- Chữ in hoa: Chữ phải giữ vần
Một đoạn song thất lục bát tiêu biểu với "yêu vận" và "cước vận" in đậm:
- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
- Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
- Xanh kia thăm thẳm từng trên
- Nào ai gây dựng cho nên nỗi này
- Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
- Khói Cam Tuyền mờ mịt khúc mây
- Chín tầng gươm báu trao tay
- Nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh
- Chinh Phụ Ngâm
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét