VẦN - VẦN THÔNG - GIEO VẦN
GIEO VẦN
✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿
GIEO VẦN
Có bốn điều HỆ TRỌNG nên
nhớ trong GIEO VẦN Quốc ngữ:
1. Trong sự gieo vần Quốc ngữ, có ba âm: A, Ă, Â rất thường được GHÉP với một phụ âm khác như C,
M, N, P, T để tạo thành âm GHÉP như: AC, ĂC, ÂC... AM, ĂM, ÂM... AN, ĂN, ÂN... AP, ĂP, ÂP... AT, ẮT, ẤT vv...Những vần GHÉP nói trên
CHỈ thông được với nhau khi có cùng một phụ âm đứng trước!
Ví dụ:
- BÁT thông được với BẮT
hay BẤT,
mà KHÔNG thông được với CẮT
hay CẤT hoặc MẮT hay MẤT...
tuy nhiên BÁT thông được
CÁT hay MÁT vì chúng đều có âm GHÉP "AT" theo sau.
- TAM thông với TĂM hay
TÂM,
mà KHÔNG thông với CĂM
hay CÂM, cũng không thông được với TRĂM hay TRÂM...
tuy nhiên TAM thông được
với CAM, TRAM, vì chúng có cùng âm GHÉP "AM" theo sau.
- TAN thông với TĂN hay
TÂN, mà không thông với VĂN hay VÂN
- LAM thông với LĂM, LÂM,
nhưng không thông với BĂM, BÂM, TRĂM, TRÂM
- QUAN thông với QUĂN,
QUÂN, nhưng không thông với CHĂN, CHÂN, NHĂN, NHÂN, v.v...
Đó là do cách hiệp vận do
âm điệu điều hoà mà thành lệ.
2. VẦN GHÉP:
a. Khi có vần GHÉP bằng 2
hoặc 3 chữ nguyên âm với một chữ phụ âm đứng cuối, (Ví dụ như: IÊN, UYÊN, UÂN,
UÔN, ...) ta nên lấy 2 chữ cuối cùng để làm VẬN CĂN mà gieo vần,
Cho nên
- EN, IN, vần với YÊN hay
UYÊN
- ÂN vần với UÂN
- ƠN vần với OAN
- ON vần với UÔN
b. Khi có vần GHÉP bằng 2
hay 3 chữ nguyên âm với 2 chữ phụ âm
(Ví dụ như chữ: ƯƠNG...)
thì ta nên lấy 3 chữ cuối mà làm VẬN CĂN để GIEO VẦN
Cho nên: ƯƠNG vần với
ANG,
Cũng nên nhớ: ƯƠNG vần với
UÔNG vì Ơ vần với Ô,
nhưng UÔNG không vần với
ANG vì Ô không vần với A.
3. Khi có vần GHÉP bằng 2
hay 3 nguyên âm:
Khi có loại âm này thì ta
nên THEO ÂM ĐIỆU mà lấy 1 hay 2 chữ ấy mà làm VẬN CĂN
Ví dụ:
- OA, OE, UÊ, UY... thì vận
căn là A, E, Ê, Y;
nên OA vần với A, OE vần
với E, UÊ vần với Ê, UY vần với I hay Y.
- UÂY vần với ÂY
Những vần IA, UYA, UA,
ƯA, thì vận căn lại ở chữ I, Y, U, Ư mà chữ a đứng ở cuối tiếng không có ảnh hưởng
gì cả.
- I vần với IA
- A vần với IA trong chỉ
duy nhất một chữ GIA,
mà không vần với IA bắt đầu
bằng phụ âm khác như TIA, KIA...
- Ư vần với ƯA
- Ô vần với UA, vv...
4. LƯU Ý:
- Hai tiếng đồng âm và đồng
nghĩa thì không vần được với nhau
- Hai tiếng đồng âm mà
khác nghĩa thì vần với nhau được.
✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿
CÁC KIỂU GIEO VẦN:
1. CƯỚC VẬN (Vần chân):
Cước vận là các vần nằm ở
cuối câu, nghĩa là các chữ ở cuối câu vần với nhau. Đa số các thể thơ đều là cước
vận.
2. YÊU VẬN (Vần lưng):
Yêu vận là vần được gieo ở
giữa câu, nghĩa là chữ cuối của câu trên vần với một chữ nằm ở giữa câu dưới,
3. VẦN TIẾP:
Chữ cuối của 2 câu liên
tiếp vần với nhau và các cặp bằng trắc xen kẽ tiếp nhau.
4. VẦN CHÉO:
Trong một khổ 4 câu, chữ
cuối câu 1 vần với câu 3 và chữ cuối câu 2 vần với câu 4.
5. VẦN ÔM:
Trong 1 khổ thơ 4 câu
- Chữ cuối câu 1 vần với
chữ cuối câu 4
- Chữ cuối câu 2 vần với
chữ cuối câu 3.
6. VẦN 3 TIẾNG (3 vần):
Chữ cuối các câu 1, 2 và
4 của khổ thơ vần với nhau.
7. VẦN CÁCH:
Trong một khổ 4 câu, chữ
cuối câu 2 vần với câu 4.
8. VẦN NỐI:
Chữ cuối của câu 2,3 vần
với nhau và Chữ cuối câu 4 vần với chữ cuối câu 1 khổ tiếp theo.
9. VẦN SÓNG:
Trên câu thơ tiếp theo bắt
buộc có vần như vần kết thúc của khổ trên nó, vần sẽ được sắp theo dạng sóng theo
bảng luật.
10. VẦN LEO:
Trên khổ thơ tiếp theo bất
cứ vị trí nào, bắt buộc có vần như vần kết thúc của khổ trên nó
✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿
TRONG LÀM THƠ CHÚNG TA CÓ
4 CÁCH GIEO VẦN SAU:
- CHÍNH VẦN
- THÔNG VẦN
- CƯỠNG VẦN
- LẠC VẦN
a. CHÍNH VẦN (Chính vận)
Là những vần ăn khớp chặt
chẽ với nhau (ví như anh em ruột vậy)
Ví dụ:
A với A
I với I
AI với AI
ONG với ONG
v.v....
Gọi là chính vận (vần nào
ăn khớp chặt chẽ với vần nấy)
b. THÔNG VẦN (Thông vận)
Là những vần cùng nhóm,
hơi khác nhau một chút nhưng có thể tương thông với nhau. Nói nôm na là “hơi
khác nhau, nhưng nghe... lọt tai” (ví như anh em chú bác ruột vậy).
Ví dụ:
A với OA
I với E, Ê, IA, UY
AI với AY, ÂY
EM với ÊM, IM, IÊM
ANH với INH, ÊNH, UYNH
ANG với OANG, ƯƠNG
ONG với ÔNG, UNG
v.v...
Gọi là thông vận (vần hơi
khác loại nhưng ăn thông với nhau được)
c. CƯỠNG VẦN (Cưỡng vận):
Là vần ép, vần cưỡng
bách, bản thân chúng không liên quan với nhau mấy (bà con quá xa, xa 5,7 đời)
thực chất thì không thông nhau được, nhưng miễn cưỡng dùng ép cũng... tạm được.
Tất nhiên cưỡng vận chỉ
được dùng khi... bí vận mà thôi. Miễn cưỡng thì cũng được, nhưng nếu dùng nhiều
quá thì sẽ làm giảm hoặc mất giá trị bài thơ
Thí dụ :
AN với ANG
ON với OM
ƠN với ƠM
ÔN với ÔM
UÔN với ƯƠNG
IN với INH, IM, ÊM,
IÊM...
v.v.....
gọi là cưỡng vận (vần ép,
vần cưỡng bách)
d. LẠC VẦN (Lạc vận):
Là các chữ vần mà chả có
ăn nhập vần gì với nhau cả
Ví dụ:
Ơ với ƠI
A với AI, IA
Ô với ÔI, ÔN, ÔNG
ƠI với ƠN
AI với AN, ANG
v.v...
Gọi là lạc vận (không hòa
vận)
Trong 4 cách hòa vận nói
trên, khi làm thơ, nếu dùng:
- Chính vận thì chặt chẽ,
nhưng cũng đôi khi tạo cho người làm thơ cảm giác gò bó, không linh động.
- Thông vận là cách hòa vận
thoải mái nhất, làm cho bài thơ trở nên đặc sắc, biến ảo vô cùng, giúp người
làm thơ thoải mái hơn, dễ dùng chữ hơn.
- Cưỡng vận là vần ép, miễn
cưỡng cũng có thể dùng được, nhưng nếu sử dụng cưỡng vận nhiều quá, sẽ làm giảm
giá trị câu thơ.
Cả ba cách hòa vận nói
trên đều dùng được
Chỉ riêng LẠC VẬN là phải
tuyệt đối tránh, gieo vần lạc vận kể như bài thơ hỏng!!!
---------------------------------
LƯU Ý: CƯỠNG VẬN hay
THÔNG VẬN
Một vấn đề thường hay gây
ra tranh cãi là bản thân 2 vần nào đó là “Cưỡng vận” hay “Thông vận” của nhau?
1. Thật ra, quan niệm cưỡng
hay thông cũng là do con người định đoạt. Một vần nào đó bản chất là cưỡng,
nhưng nếu được dùng nhiều lần quen đi trong những bài thơ hay thì dần dần cưỡng
ấy sẽ được coi như thông mà thôi!!!
2. Một tiêu chuẩn là xét
theo truyện Kiều, những vần nào Nguyễn Du có sử dụng, được coi như thông vận.
Một số ví dụ như sau:
***ONG, ÔNG, UNG LÀ THÔNG
VẬN
Ví dụ:
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu
hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng
ngao ngán LÒNG
Phòng văn hơi giá như ĐỒNG
Trúc se ngọn thỏ, tơ
CHÙNG phím loan
Nguyễn Du - Truyện Kiều
[251-254]
--------------------------------------
***ANG, OANG, ƯƠNG LÀ
THÔNG VẬN
Ví dụ:
Cung thương làu bậc ngũ
âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm
một TRƯƠNG
Khúc nhà tay lựa nên
XOANG
Một thiên “bạc mệnh” lại
CÀNG não nhân
Nguyễn Du - Truyện Kiều
[31-34]
--------------------------------
***NHƯNG ONG, ÔNG VÀ ƯƠNG
LÀ CƯỠNG VẬN.
(Trong toàn bộ truyện Kiều,
không có câu nào ông đi đôi với ương cả)
Cưỡng vận tuy miễn cưỡng
cũng dùng được, nhưng nếu có thể thì nên tránh.
Trong truyện Kiều: Rất ít
khi thấy xuất hiện Cưỡng vận. Cả bộ truyện, chỉ có thể nhặt ra được 4 lần Nguyễn
Du sử dụng cưỡng vận mà thôi:
Lời con dặn lại một hai
Dẫu mòn bia đá, dám phai
tấc VÀNG
Lạy thôi nàng lại rén CHIỀNG:
-“Nhờ cha trả được nghĩa
CHÀNG cho xuôi” [771-774]
Tin nhà ngày một vắng TIN
Mặn tình cát lũy, nhạt
TÌNH tào khang [1480]
Bao nhiêu đoạn khổ tình
thương
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng
thở THAN
Dặn tôi đứng lại một BÊN
Chán tai rồi mới bước lên
trên lầu [2002]
Lệnh quan ai dám cãi lời
Ép tình mới gán cho người
thổ quan
Ông tơ thật nhẽ đa ĐOAN
Xe tơ sao khéo vơ QUÀNG
vơ xiên [2600]
3. Nguyên tắc chung của
các quan điểm liên quan đến thông vận và cưỡng vận là :
- Vần nào Nguyễn Du có sử
dụng được kể như thông vận
- Vần nào Nguyễn Du không
sử dụng là cưỡng vận.
TÓM LẠI:
Qua những ví dụ ấy, ta thấy
rằng nếu biết dùng cưỡng vận một cách hạn chế, có chừng mực thì bài thơ vẫn hay
như thường. Còn nếu lạm dụng, hoặc dùng không khéo thì... khó nghe lắm.
Và cuối cùng thì câu hỏi
“Vần này Cưỡng hay Thông” vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có câu đáp vậy.
✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿✿
Trên đây là những điều
căn bản mà các anh chị em cần phải hiểu khi bắt đầu tập làm thơ.
Mong rằng những điều này
giúp ích được cho các ACE muốn làm quen cùng NGUYÊN TẮC LÀM THƠ.
Chúc tất cả vui vẻ và
thành công!
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét